RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG UNG THU TIỀN LIỆT TUYỂN?
Resvératrol, một polyphénol thiên nhiên, có những tính chất chống oxy hóa (anti-oxydant) và một hoạt tính chống ung thư. Chất này đặc biệt được t́m thấy trong nho đỏ, quả dâu tằm (mures) và đậu phụng. Một nhóm nghiên cứu của đại học Alabama (Hoa kỳ) đă muốn biết xem phân tử này có thể có một tác dụng hoá học bảo vệ (effet chimioprotecteur) chống ung thư tuyến tiền liệt qua sự điều ḥa các thụ thể sinh dục đối với stéroides và các đuờng tín hiệu thần kinh của các yếu tố tăng trưởng (facteurs de croissance).
Trong công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă cho resvératrol (625 mg/kg) các chú chuột được biến đổi di truyền để mắc bệnh u xơ tiền liệt tuyết (adénome prostatique) và họ đă so sánh các chú chuột này với một nhóm kiểm chứng. Các chú chuột bị biến đổi về mặt di truyền và của nhóm kiểm chứng được thăm khám sau đó vào lứa tuổi 12 và 28 tuần. Các kết quả chứng tỏ rằng tỷ lệ mắc phải adénocarcinome có độ phân hóa thấp giảm 7,7 lần. Nguy cơ của dạng thương tổn ung thư nghiêm trọng nhất giảm 87%. Hiệu quả bảo vệ chống ung thư cực đại nhất có được sau khi cho bổ sung resvératrol trong 7 tháng. Sau cùng ở những chú chuột phát bệnh adénocarcinome, điều trị cho phép giảm hoặc làm ngưng sự tăng trưởng của khối u trong 48 % trường hợp.
Đối với các tác giả, Curt Harper và các cộng sự viên, sự giảm tăng sinh tế bào và nồng độ của yếu tố tăng trưởng, IGF-1, sự kém điều ḥa của các cơ quan tác động (effecteurs) phospho-ERKs1 và 2 và sự gia tăng của nồng độ chất hủy (suppresseur) khối u, ER-beta, là nguồn gốc của tác dụng cản của resvératrol lên trên sự phát triển của ung thư tiền liệt tuyến.
Cũng nhóm nghiên cứu này đă công bố các công tŕnh được thực hiện trên chuột, chứng tỏ tác dụng của polyphénol này lên ung thư của vú. Tuy nhiên c̣n cần đến những nghiên cứu khác để xác định vai tṛ của polyphénol này trên người và với liều lượng được sử dụng là bao nhiêu. Vài tác giả đặc biệt giải thích rằng tác dụng được xác nhận ở chuột tương ứng với nồng độ tương đương với việc tiêu thụ một chai rượu vang đỏ mỗi ngày! Thế mà, liều lượng được khuyên lại là 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày cho một người đàn ông và một ly cho một người đàn bà.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 47 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (18/10/2007 )
5/ MỠ,THỊT VÀ NGUY CƠ UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN
Nhiều nhà nghiên cứu đă quan tâm về những nguy cơ tiềm tàng của mỡ thức ăn và thịt trong sự phát triển ung thư tiền liệt tuyến. Song-Yi Park và nhóm nghiên cứu đă nghiên cứu sự liên kết giữa việc tiêu thụ mỡ và thịt và ung thư tuyến tiền liệt trong Multiethnic Cohort Study. Công tŕnh phân tích được thực hiện trên 82.483 người (45 tuổi) gốc Hawai và Los Angeles. Các người tham dự đă điền một bảng câu hỏi chi tiết về các thói quen ăn uống của họ suốt trong thời kỳ 1993-1996. Trong quá tŕnh theo dơi (keo dài 8 năm), các nhà nghiên cứu đă ghi nhận được 4.404 trường hợp ung thư tiền liệt tuyến (trong đó có 1.278 trường hợp ung thư có mức độ cao).
Việc ăn các loại mỡ khác nhau ( lipides toàn phần, lipides bảo hoà, lipides mono• hay poly-insaturés), acides béo n-6, cholestérol, các loại thịt và mỡ khác nhau, đă không tỏ ra là những yếu tố làm dễ của ung thư tuyến tiền liệt nói chung, cũng như của ung thư tiền liệt tuyền có mức độ cao. Các kết quả tương tự nhau trong 4 nhóm chủng tộc.Tuy nhiên các tác giả gợi ư một tác dụng bảo vệ nào đó của acide béo n-3.Tuy nhiên tác dụng này chỉ xảy ra ở nhóm latino và da trắng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/10/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 62 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/2/2008 )
9/ BỆNH TRỨNG CÁ ( ACNE) THỂ NẶNG VÀ UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN
Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ gợi ư sự hiện diện của một mối liên hệ khả dĩ giữa chứng bệnh trứng cá thể nặng (acné sévère) và bệnh ung thư tiền liệt tuyến (cancer de la prostate). Siobhan Sutcliffe (Baltimore) và các cộng sự viên đă chứng minh sự hiện diện của Propionibacterium acnes, vi khuẩn liên kết với bệnh trứng cá, nơi 1/3 các mô tuyến tiền liệt của các bệnh nhân bị ung thư tiền liệt tuyến. Người ta cũng nhận thấy rằng các mô trong đó các vi khuẩn này được t́m thấy, có các dấu chứng viêm nhiều hơn là các mô tiền liệt tuyến không có sự hiện diện của các vi khuẩn này. Họ đă nghiên cứu mối liên hệ khả dĩ giữa bệnh trứng cá thể nặng (được xác định là nặng khi bệnh nhân đă phải sử dụng tétracyclines để điều trị trong một thời kỳ ít nhất 4 năm) và ung thư của tuyến tiền liệt trong Health Professionals Folow-up Study. Các tác giả đă xác nhận rằng những người có tiền sử bệnh trứng cá thể nặng, có một nguy cơ gia tăng rơ rệt phát triển một ung thư tiền liệt tuyến về sau này. Tuy nhiên, Sutcliffe nhấn mạnh rằng không nên từ đó rút ra các kết luận vội vàng. Thật vậy số bệnh nhân được đưa vào trong công tŕnh nghiên cứu này và đă tiêu thụ tétracyclines trong 4 năm là rất thấp (khoảng 0,5% trong số 34.629 người được tuyển mộ trong công tŕnh nghiên cứu). Dầu thế nào đi nữa, cần phải có các nghiên cứu sâu hơn để kiểm tra sự hiện diện của mối liên kết này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 29/1/2008)
|