|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Ngày Trở Về.
Phạm Gia Đại
Tôi trở về thành phố trong một chiều nhạt nắng. Cái nóng ban trưa đă dịu đi và th́nh thoảng vài cơn gió nhẹ mang theo chút hơi mát pha lẫn cái nóng c̣n sót lại phả lên mặt làm tôi tỉnh hẳn sau mấy giờ ngồi trên xe đ̣. Nắng đă xiên xiên hắt từ bên kia đường làm đổ nghiêng bóng những mái nhà xuống ḷng đường. Chiếc xe đ̣ đă ngừng tại bến và hành khách lục tục xuống xe. Các chị quang gánh và thúng mủng, mà chúng tôi đă có dịp nói chuyện và hàn huyên suốt dọc đường, đang xuống xe cùng với chúng tôi - mười sáu người tù cuối cùng. Chiếc xe đ̣ đă chở chúng tôi từ trại giam Hàm Tân Z-30D từ B́nh Thuận về đến Sài G̣n.
Chúng tôi đă xa thành phố này đúng 17 năm kể từ ngày miền Nam sụp đổ khi Cộng quân ùa vào xâm chiếm thành phố hầu như bỏ ngỏ này sau lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh. Miền Nam tự do và anh hùng, sau 21 năm chiến đấu can trường và dũng cảm, đă bị bức tử một cách đau thương v́ đồng minh Hoa Kỳ đang tâm bắt tay với Trung Cộng. Mười bẩy năm trước, tôi phải giă từ thành phố đầy kỷ niệm này và tất cả các người thân yêu trong niềm đau uất nghẹn ngào để bước chân vào chốn không cùng của những trại giam tập trung mọc lên như nấm của cộng sản khắp hai miền Nam Bắc. Sau một năm trong các trại giam trong Nam, mười hai năm biệt xứ lưu đầy ngoài Bắc, cộng thêm bốn năm nữa lao động khổ sai trong Nam, hôm nay ngày 29-4-1992, chúng tôi 16 tù chính trị cuối cùng thuộc chế độ VNCH trong trại Z-30D đă được thả ra sau mưới bẩy năm - c̣n bốn ông Tướng th́ một tuần sau ngày 5-5-1992, cộng sản mới thả ra: Lê Minh Đảo, Lê Văn Thân, Đỗ Kế Giai và Trần Bá Di. Họ là 20 người tù cuối cùng trong số hàng triệu quân dân cán chính VNCH đă phải vào trại tập trung từ ba ngày, đến 10 ngày, đến 1 tháng và nhiều năm sau đó, mà Hà Nội huyên hoang một cách xảo trá với thế giới đó là “chính sách khoan hồng nhân đạo” khi chúng vào chiếm miền Nam. Từ đó, nhà tan cửa nát, đất nước điêu linh, quê hương đọa đầy, và dân lành thống khổ dưới sự cai trị hà khắc tàn bạo của chế độ Cộng sản vô thần, vô tôn giáo, và vô Tổ quốc. Trên bốn ngàn năm lập quốc và giữ nước, Việt Nam chưa bao giờ bị rơi vào t́nh huống vô cùng nguy nàn của thù trong là Việt Cộng đang dâng đất đai biển cả của tổ tiên cho kẻ thù phương Bắc, và giặc ngoài là giặc Trung Cộng đang tràn xuống phương Nam và luôn lăm le Hán hóa dân Việt.
Một miền Nam trù phú, an b́nh, yêu chuộng tự do không c̣n nữa, người dân bị tṛng vào cổ hai tầng áp bức, nhất là đồng bào gần các tỉnh biên giới. Người dân bị cướp hết tài sản, tiền vàng bạc, ruộng vườn, ao cá. Những than khóc thấu đến Trời Xanh, nhưng loài quỷ đỏ vẫn không ngừng tay chém giết và cướp bóc.
Để nắm lấy toàn quyền sinh sát trong Nam, cộng sản Bắc Việt đă loại trừ ngay các thành phần lănh đạo trong “Mặt Trận Giải Phóng” của Việt Cộng trong Nam, và “Thành Đồng” đă trở thành “Đồng Nát”. Những con người tai bèo khăn rằn trong Nam, cũng như hàng ngàn người đă từng nuôi dưỡng quân “Giải Phóng”, khi hiểu ra họ chỉ là những viên đá lót đường cho quân Bắc Việt trong công cuộc xâm lăng miền Nam th́ đă quá muộn. Miền Nam sau năm 1975 đang rơi vào sau “Bức Màn Sắt” như Miền Bắc sau năm 1954.
Trên chuyến xe đ̣ trở về thành phố thân yêu, chúng tôi đă được nghe người dân kể lại bao đau thương mất mát mà họ đă phải hứng chịu khi cộng quân tràn vào thành phố sau tháng 4-1975. Người dân sống trong các thành phố hay làng mạc Miền Nam cũng chẳng khác ǵ bị nhốt trong một nhà tù khổng lồ, bị canh giữ bởi các họng súng AK và những cặp mắt cú vọ, và mạng người bị xem rẻ hơn loài vật. Hàng triệu người đă bị hăm hại, bị đầy ải đi vùng kinh tế mới, bị đánh tư sản, bị đảng cộng sản ăn cướp giữa ban ngày, và bị đổi tiền hai lần để thực hiện chính sách của cộng sản nhằm bần cùng hóa một Miền Nam quá thịnh vượng ngoài sức tưởng tượng của đám cán bộ khi vào tiếp thu các thành phố. Người dân vô cùng kinh ngạc khi gặp chúng tôi và biết được sau 17 năm những quân dân cán chính cuối cùng mới được thả ra khỏi trại giam. Họ đă tặng cho chúng tôi những ǵ c̣n lại trong thúng mủng sau chuyến buôn cuối ngày của họ như những trái cây, mũ nón, những đôi dép nhựa, và mừng chúng tôi đă sống sót trở về đoàn tụ gia đ́nh.
Tôi đứng bên lề đường cùng các bạn, phân vân chưa biết đi về hướng nào, v́ Sài G̣n bây giờ đă nhiều thay đổi, các con đường và chính thành phố thân yêu này cũng đă thay tên. Ḍng xe cộ vẫn di chuyển trên đường, mọi người vẫn hối hả cho xong việc để trở về nhà chăng ? Và chẳng ai để ư đến chúng tôi đang ngơ ngác bên đường trong ngày đáng ghi nhớ nhất đời ḿnh. Ngày mà chúng tôi không hề mong đợi v́ đă bao nhiêu năm trôi qua trong vô vọng, th́ đột nhiên nó lại đến với tờ Giấy Ra Trại chỉ nhỏ bằng nửa bàn tay một mầu xam xám, nhưng không có nó chúng tôi đă kéo lê cuộc đời tù đầy mười bẩy năm qua. Hàng ngàn người đă ngă gục trong các trại giam, trên những luống cầy, trong rừng sâu khi đốn củi, tại những đồn điền trong thung lũng nơi rừng thiêng nước độc. Hàng ngàn tù nhân chính trị đă chết v́ kiệt sức, v́ bị bỏ đói thiếu cơm ăn áo mặc khi mùa Đông ập đến, v́ bệnh tật không thuốc men, v́ bị kẻ thù hành hạ tra tấn cả thể xác lẫn tinh thần. Vậy mà chúng tôi c̣n tồn tại dù nhiều lần đă chết đi sống lại, quả là phép lạ!
Tôi quay nh́n lại các bạn ḿnh lần chót, những người bạn, những chiến hữu, những bạn tù đồng cam cộng khổ, chia sớt miếng cơm manh áo, điếu thuốc với nhau giờ đang đứng đây t́m đường về nhà. Tôi siết tay các bạn thật chặt lần chót, chỉ nh́n nhau không ai nói một lời, có lễ tâm trí mỗi người đang lưu lạc đi một hướng. Một số bạn c̣n vợ con th́ sẽ về với vợ con, một số gia đ́nh đă vượt biên hay di tản rồi th́ về với thân nhân c̣n ở lại. Một số phải về tỉnh sống nhờ người quen v́ anh chẳng c̣n ai thân nữa trên cơi đời này sau biến cố tang thương 30-4 mười bẩy năm trước. Thế rồi như con sóng vội xô vào bờ, chúng tôi tản mỗi người một phía, phút chốc chẳng c̣n ai, và tôi cũng vội đón một chiếc xe ôm t́m về nhà ông anh thứ hai ở Trương Minh Kư.
Tôi đă từng ở con đường Trương Minh Giảng nối dài xuống Trương Minh Kư này trên mười lăm năm trước kia, nhưng hôm nay cảnh vật đều thay đổi, đều lạ lẫm, hay như trong truyện mà tôi say mê từ hồi niên thiếu: “Hôm Nay Tôi Đi Học” của nhà văn Thanh Tịnh - v́ chính trong tôi đang có nhiều thay đổi ? Tôi vào tù Cộng sản khi c̣n thanh niên và khi ra khỏi tù đă quá trung tuần với mái tóc đă hoa râm. Thời gian ấy đủ để cho một đứa bé từ bậc Tiểu học qua Trung học và tốt nghiệp Đại học. Thời gian là liều thuốc thần diệu xoa đi bao đau thương mất mát nhưng quả cũng là một cái ǵ thật nghiệt ngă và vô t́nh. Hai đứa con tôi lúc tôi đi tù năm 1975 mới bốn và năm tuổi, bây giờ đă trưởng thành trên hai mươi hết cả rồi. Bao nhiêu năm qua mỗi độ xuân về trong tiếng pháo Tết gịn dă, chúng lại trông ngóng người bố trở về, nhưng bao nhiêu năm rồi bố của cháu vẫn biệt tăm, và hai cháu vẫn sống trong niềm vô vọng. Hôm nay tôi trở về chắc hai con tôi mừng lắm, và mẹ tôi cùng các em đă đi Mỹ theo chương tŕnh đoàn tụ bây giờ ở bên Mỹ chắc vô cùng mừng rỡ v́ công lao nuôi tôi mười mấy năm trong tù, nay ngày trở về đă thành hiện thực.
Chiếc xe ôm dừng trước một con hẻm, người tài xế xe ôm cũng là một Quân nhân trong chế độ cũ, khi biết tôi là một trong những người tù cuối cùng, đă không lấy tiền, nhưng tôi bỏ tiền vào tay anh rồi nắm tay anh cám ơn v́ anh cũng cần có tiền để nuôi gia đ́nh. Anh mỉm cười thật tươi rồi chào tôi theo kiểu nhà binh. Tôi lững thững bước vào trong hẻm, trên vai vẫn khoác chiếc ba lô lính mầu xanh ngày nào tôi khoác nó ra đi trong tủi hận, chỉ khác là nó nay đă bạc mầu và nhiều chỗ vá v́ chuột gặm. Sau khi t́m một hồi mới thấy căn nhà ba từng của ông anh thứ hai ở tận cuối một con hẻm khá rộng ở sâu bên trong. Tôi bước qua cái sân nhỏ rồi bước vào căn pḥng lát đá hoa, cửa mở nhưng chẳng thấy một bóng ai. Bao nhiêu năm rồi tôi mới nh́n thấy lại sàn đá hoa và những tủ bàn ghế, những lẵng hoa, bức tranh đầy mầu sắc của quán cà phê thành phố Paris bên gịng sông Seine, những con búp bê nhựa thật đẹp trong váy x̣e đứng trong tủ kính. Tôi đang tần ngần với các trang trí kiểu tây phương trong nhà ông anh thứ hai, thật khác xa với nằm trên sàn gỗ hay bục xi măng bao nhiêu năm trời, th́ anh tôi từ bếp xuất hiện. Sau một giây ngỡ ngàng, anh la lên: “Em ơi! Chú Đại về này”. Anh chạy lại bên tôi, đỡ lấy cái ba lô: “Anh chờ chú bao lâu rồi vẫn không thấy?” Tôi nói với anh mà ngỡ như tự nhủ thầm: “Tôi về trong đợt cuối cùng, trong số những người cuối cùng.”
Anh cho biết chỉ c̣n gia đ́nh anh ở lại, mẹ tôi và gia đ́nh năm em tôi đă được ông anh thứ ba là thủ khoa khóa 13 hải quân Nha Trang bảo lănh từ 11 năm trước, nay đă định cư bên California. Và từ mấy năm nay, anh đă để sẵn căn pḥng trên lầu 3 chờ đón tôi về. Tôi chợt nhớ đến các bạn ḿnh, chắc giờ này đă về đến nhà và đang tíu tít với vợ con người thân, tôi thấy vui trong ḷng nhưng cũng thật nhớ các bạn, những người đă từng vào sinh ra tử với ḿnh trong tù mà tôi không thể nào quên được trong cuộc đời này. Tôi nhớ đến một lá thư của một anh bạn cấp trung tá được tha về đầu năm 1988, sau 13 năm tù, khi về với gia đ́nh đă viết vào thăm tôi và 90 người cuối cùng c̣n ở lại ngoài Bắc tại trại Ba Sao Nam Hà rằng anh rất vui ra về nhưng các anh ví như chỉ được huy chương bạc, c̣n chúng tôi những người tù cuối cùng mới xứng đáng được huy chương vàng. Bây giờ các anh ở đâu, hy vọng chúng ta sẽ hội tụ bên phương trời tự do một ngày không xa.
Trong khi anh tôi vội vă leo chiếc cầu thang xinh xắn xây theo h́nh xoắn ốc xuống nhà để dục người vợ và vợ chồng con gái anh chuẩn bị bữa cơm chiều, tôi lấy một bộ quần áo mới ra và vào pḥng tắm. Đây là lần đầu tiên sau mười bẩy năm, tôi được tắm trong một pḥng kín với ṿi hoa sen và nước ấm, và sà pḥng thơm. Tôi kỳ cọ thật lâu như muốn tẩy đi hết những bụi trần, chướng khí của trại giam đă bám vào người ḿnh bấy lâu, và thấy thật dễ chịu dưới ḍng nước ấm.
Khi bước vào pḥng ăn, tôi thấy ngoài gia đ́nh anh tôi c̣n có vợ chồng Bác sĩ Như bạn anh tôi và cô em họ tên Mai. Anh tôi giới thiệu tôi mười bẩy năm mới về. Cô Mai nh́n tôi thắc mắc và hỏi anh tôi sao tôi từ Mỹ về mà xanh xao gầy quá vậy. Anh tôi phá lên cười và nói rằng cậu em anh mới về từ trại giam, mười bẩy năm bị tập trung và lưu đầy, sau khi mất miền Nam. Tôi cũng bật cười, nụ cười thật hiếm hoi trên môi người tù vừa từ vùng rừng núi trở về thành phố.
Mọi người đều ăn uống tṛ chuyện rôm rả. Tôi đă nhờ cậu cháu rể sáng ngày mai về Phú Lâm báo tin cho hai con tôi biết bố cháu đă về nên cũng tạm yên tâm, sau đó sẽ thu xếp lên chùa thăm thầy của tôi. C̣n nhiều việc phải làm, nhất là phải ra đi thật nhanh theo chương tŕnh nhân đạo của chính phủ Hoa Kỳ Humanitarian Operation (H.O.) v́ ngày nào c̣n ở đây tính mạng ḿnh vẫn c̣n bị đe dọa. Vừa ăn bữa cơm gia đ́nh lần đầu tiên sau bao nhiêu năm xa vắng, tôi vừa suy nghĩ tới đâu tính tới đó, Trời Phật đă cứu những người tù cuối cùng này ra khỏi tù, th́ con đường ḿnh sẽ đi cũng đă định sẵn. Cơn mưa đêm kinh hoàng đă qua rồi, ngày mai trời lại sáng.
(Kỷ niệm ngày ra khỏi trại giam tập trung Hàm Tân Z-30D 29-4-1992).
Phạm Gia Đại
|