R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
BỆNH ĐỘNG KINH (EPILEPSIE)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Bệnh Động Kinh (Epilepsie)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 62 - BS NGUY NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/2/2008 )
4/ NHỮNG THƯƠNG TỔN KHÔNG THẤY ĐƯỢC DO SỨC NỔ CỦA BOM ĐẠN LÊN NĂO BỘ
Suốt trong trận chiến vùng Balkan năm 1990, Ibolja Cernak, BS chuyên khoa thần kinh thuộc bệnh viện quân sự Belgrade, đă phải đối diện với một bí ẩn: Bà thấy các quân nhân bị các rối loạn về trí nhớ, bị chóng mặt, bị những vấn đề về diễn đạt, nhưng lại không mang dấu vết của một vết thương nào. Một trong các người lính này, tuổi 19, đă đến một cửa hàng gia vị rồi bật khóc nức nở, v́ không biết làm thế nào để t́m đường trở về lại nhà. Khi bà mẹ của anh ta dẫn anh ta đến bệnh viện vài ngày sau đó, Ibolja Cernak đă khám phá một điểm chung cho tất cả các trường hợp thuộc loại này: Cậu thanh niên này, cũng như những người khác đều đă sống sót sau một trận nổ có cường độ mạnh trong lúc giao tranh. Và điều lạ lùng là hầu hết không ai bị thương ở đầu cả.
Tuy vậy, khi bà thực hiện chụp h́nh ảnh bằng tomographie hoặc bằng IRM, bà đă thấy được những dấu hiệu của các thương tổn.Trong vài trường hợp, các năo thất (ventricules) của năo bộ trở nên lớn ra hoặc có dấu vết của một xuất huyết nhẹ. Trong các tài liệu y học được tham khảo, Cernak đă không t́m thấy được một bài viết nào về chủ đề này cả. Người ta chỉ nói rơ rằng các làn sóng va chạm (ondes de choc) của một vụ nổ có thể gây tổn hại lên các cơ quan rỗng chứa đầy không khí như phổi và ruột, chứ không phải là năo bộ.
Nếu bà là thầy thuốc của Đệ Nhất Thế Chiến, Cernak đă tâm sự như vậy, th́ có lẽ bà sẽ nhận biết loại chấn thương này nơi hàng ngàn binh lính bị cái điều mà hồi đó đă gọi là shellshock hay choc d’obus (sốc do đạn súng cối). Các bác sĩ và các sĩ quan lúc đó đă xem hiện tượng này như là một hiện tượng tâm lư tạm thời, theo họ, chỉ có tác động lên các binh sĩ có trạng thái tâm thần vốn yếu ớt hơn. Nhưng thực tế được khám phá bởi nữ bác sĩ chuyên khoa thần kinh này lại khác hẳn : những hiện tượng tâm lư này dường như là do những biến đổi vật lư dài lâu trong năo bộ.
Để chứng tỏ điều đó, năm 1999 bà đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu nơi 1.300 binh lính bị thương ở phần thấp của cơ thể, nhưng không phải ở đầu. Một nửa trong số các binh sĩ này đă bị thương vào lúc xảy ra một trận nổ (une explosion), c̣n những người khác th́ bị thương do đạn bắn (un projectile). Trong số những người thuộc nhóm đầu, nhiều người bị mất ngủ, chóng mặt và mất trí nhớ. Cũng trong nhóm này, 36% trong số các nạn nhân đă cho thấy một điện năo đồ (électroencéphalogra mme) không b́nh thuờng trong 3 ngày theo sau chấn thương, so với 12% trong nhóm thứ hai. Một năm sau, điện năo đồ không b́nh thường vẫn c̣n nơi 30% trong số các nạn nhân thuộc nhóm thứ nhất, so với chỉ 4% thuộc nhóm thứ hai.
Cùng với những nhóm nghiên cứu khác ở Belgrade, ở Trung Quốc và Thụy Điển, Cernak đă thực hiện những nghiên cứu trên động vật: các công tŕnh nghiên cứu này xác nhận rằng các làn sóng nổ (onde de déflagration) có thể gây thương tổn lên các tế bào thần kinh. Các công tŕnh này vẫn không được chú ư đến cho măi đến năm 2006, là lúc hàng trăm binh lính Hoa Kỳ và Anh Quốc đă trở về từ Irak với những triệu chứng tương tự như những triệu chứng của các bệnh nhân của bà Cernak. Các bẫy ḿn được đặt trên các đường lộ đă trở nên thường xuyên hơn và các bác sĩ quân y đă nghĩ rằng những triệu chứng này là do một chấn thương nhẹ của năo bộ. Cernak, từ nay làm việc ở Johns Hopkins University ở tiểu bang Maryland, đă thấy rằng những quan sát của bà từ nay đă được công nhận .
Theo bà, các làn sóng va chạm (ondes de choc) sau trận nổ được lan truyền xuyên qua các mạch máu của lồng ngực lên năo bộ và đă để lại ở đấy những dấu vết thương tổn thần kinh; các thương tổn này cần đến thời gian dài lâu mới xuất hiện.Trong trường hợp này, việc đội mũ sắt sẽ chẳng có ích lợi ǵ nhiều. Các công tŕnh nghiên cứu trên chuột được cho tiếp xúc với các sóng va chạm, đă gợi cho bà kịch bản này: mặc dầu được bảo vệ bởi các lá thép, các làn sóng va chạm vẫn gây những biến đổi của mô năo bên trong. “Bà Cernak đă là một người tiền phong trong lănh vực này, John Povlishock thuộc Virginia Commonwealth University ở Richmond đă đánh giá như vậy. Chủ đề này có một ư nghĩa rất to lớn về kinh tế, quân sự và xă hội, nhưng măi đến hôm nay vẫn rất ít được nghiên cứu đến”.
CHIẾC HỘP PANDORE
Từ đó, vấn đề t́m biết các làn sóng nổ ảnh hưởng như thế nào lên năo bộ dần dần trở thành ưu tiên trong quân y. Mùa hè năm qua, Quốc Hội Hoa Kỳ đă cấp 150 triệu dollars cho Bộ Quốc Pḥng, dành cho năm đầu nghiên cứu về chủ đề này. Một chương tŕnh để t́m hiểu chấn thương gây nên bởi các làn sóng va chạm, nhiệt và bức xạ điện từ phát sinh do các trận nổ, đă được khởi động bởi Defense Advanced Research Projects Agency. Một cơ quan nghiên cứu khác, chuyên môn trong các chấn thương nhẹ của năo bộ, DVBIC, đă nhận một tài trợ 14 triệu dollars mỗi năm. Theo cơ quan này, 10 đến 20% các binh sĩ phục vụ ở Irak và ở Afganistan đă bị các chấn thương thuộc loại này, dưới dạng này hoặc dạng khác. Bảng thống kê vừa qua cho thấy rằng gần 25.000 trong số các binh sĩ này đă là nạn nhân của những chấn thương thuộc loại này. Đă có chỉ thị cho tất cả các bệnh viện dành cho các cựu chiến binh là phải t́m kiếm một cách có hệ thống các chấn thương nhẹ của năo bộ nơi những người đến bệnh viện khám.
Sự việc do tiếp xúc một trận nổ mà có thể gây nên những tổn hại dài lâu nơi năo bộ đă mở chiếc hộp Pandore, đặc biệt là đối với các cựu chiến binh lớn tuổi hơn. Bởi v́ điều này hàm ư rằng một vài người có thể bị các thương tổn thần kinh đă không được chẩn đoán hoặc đă bị lẫn lộn với một hợp chứng căng thẳng sau chấn thương (syndrome de stress posttraumatique). Thật vậy, từ khi chính phủ bắt đầu đưa ra các thông tin về loại chấn thương này, các cựu chiến binh t́m kiếm một điều trị cho những vấn đề tâm thần mà vài người đă có từ nhiều thập niên qua. “Có thể các chấn thương gây nên do các trận nổ sẽ tiếp nối “chất độc màu da cam” hoặc “hợp chứng chiến tranh vùng vịnh”, David Trudeau, một bác sĩ chuyên khoa tâm thần phụ trách các cựu chiến binh, đă chỉ rơ như vậy.
Cernak đă nhận được nhiều thư và điện thoại của các cựu chiến binh cám ơn bà về công tŕnh mà bà đă thực hiện. “Các binh lính là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới, và giúp đỡ họ là một nghĩa vụ đạo đức”, bà Cerna đă phát biểu như thế.
(LE FIGARO 28/1/2008)
|