SIÊU ÂM ĐỂ QUAN SÁT HOẠT ĐỘNG NÃO BỘ.
Philippe Ryvlin là giáo sư của bệnh viện thần kinh học Lyon và là giám đốc của nhóm nghiên cứu Inserm và CNRS Tiger, chuyên môn trong điều trị bệnh động kinh.
Hỏi : Một kỹ thuật chụp hình ảnh não bộ (imagerie cérébrale) vừa được hiệu chính. Nó cho phép thực hiện điều gì ?
Philippe Ryvlin : Nó cho phép phát hiện điều xảy ra trong não bộ (hiện nay là của chuột) với một độ chính xac chưa từng có và với một échelle de temps 200 mili giây. Điều này cho phép kỹ thuật mới này trở thành một kỹ thuật nhanh hơn nhiều so với chụp hình ảnh bằng cộng hưởng từ chức năng (IRMf : imagerie par résonance magnétique fonctionnelle), hiện nay là référence để nghiên cứu sự vận hành chức năng của não bộ. Với sự gia tăng lưu lượng máu như là chứng cớ của hoạt động não, kỹ thuật mới này cho phép thăm dò sự vận hành chức năng của não.
Hỏi : Nguyên tắc của nó là gì?
Philippe Ryvlin : Ta sử dụng một sonde phát ra trong não bộ những làn sóng siêu âm đặc biệt. Những làn sóng này “ nảy lên ” trên các tế bào máu và được thu hồi bởi ống thăm dò. Phân tích cho phép tạo một hình ảnh các huyết quản và đo lưu lượng máu với một thang tỷ lệ gần như bé xíu (100 micromètre). Đó là một sự cải thiện rất đáng kể của siêu âm doppler, đã được sử dụng từ nhiều năm qua để thăm dò các huyết quản lớn nơi người.
Hỏi : Những hạn chế của kỹ thuật này là gì ?
Philippe Ryvlin : Các trắc nghiệm trên chuột là đáng phấn khởi nhưng não bộ người lớn hơn và nằm sâu hơn. Sẽ phải chế tạo những công cụ mạnh hơn. Nhất là, ta vấp phải cùng vấn đề như đối với siêu âm doppler cổ điển : các siêu âm gặp khó khăn khi phải đi xuyên qua xương, quá dày đặc.
Hỏi : Thế thì ta sẽ có thể sử dụng kỹ thuật này trong y khoa không ?
Philippe Ryvlin : Sự kiện não bộ bi khép kín trong một hộp sọ là một trở ngại. Nhưng hai áp dụng y khoa có thể được dự kiến ngay khi dụng cụ được thích ứng với con người. Trước hết là sự sử dụng trong ngoại thần kinh. Thí dụ các cơn động kinh là do những phóng điện bất thường sinh ra một cách ngẫu nhiên và lan tràn trong não bộ. Đôi khi việc lấy đi vùng phát xuất của các phóng điện này là cách duy nhất để làm ngừng các cơn. Ta càng giới hạn vùng này thì ta càng ít tạo bại liệt lúc làm thương tổn một vùng chức năng nằm kế cận. Lúc phẫu thuật, thầy thuốc ngoại khoa mở một cửa sổ nhỏ vào trong hộp sọ. Nhờ cửa sổ này, ông ta sẽ có thể đặt sonde tiếp xúc trực tiếp với não bộ và xác định những vùng của não bộ gây các cơn động kinh. Ta cũng dự kiến sử dụng kỹ thuật này ở các nhũ nhi bằng cách đặt sonde lên thóp (fontanelle) để xem não bộ làm việc. Nhưng phải khảo sát sự vận hành chức năng bình thường của não bộ trước khi phân tích các loạn năng (dysfonctionnements) . Việc thăm dò ở nhũ nhi hiện nay có thể được thực hiện bằng IRMf, nhưng trong những điều kiện khó khăn, bởi vì sự thăm khám gây căng thẳng, và cần phải nằm bất động.
(LA RECHERCHE 9/2011)
|