BỆNH CAO ÁP HUYẾT
(Hypertension)
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
8748 E. Valley Blvd., Ste. H
Rosemead, CA 91770
(626) 288-3306
Mới có Obamacare, lâu rồi bạn chưa đi bác sĩ, bạn nên đi, nhờ bác sĩ đo hộ áp huyết.
Bệnh cao áp huyết xảy ra rất nhiều. Riêng tại Mỹ (nay trên 300 triệu cư dân), khoảng 58-65 triệu người mang bệnh cao áp huyết, như vậy, tính ra khoảng 5 người ở Mỹ, có một vị cao áp huyết.
Cao áp huyết (hypertension, high blood pressure) nguy hiểm, đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke), chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim, suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều vị không biết mình mang bệnh, tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác, được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên, cao áp huyết nổi danh là một “căn bệnh thầm lặng”.
Cao áp huyết là gì? Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đẩy, và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure). Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao.
Áp huyết được diễn tả bằng 2 số, thí dụ: 140/90. Số trên (140) được gọi là áp suất systolic (áp suất tâm thu): sức ép của máu vào lòng động mạch mỗi khi tim co bóp để bơm máu ra khỏi tim. Số dưới (90) được gọi áp suất diastolic (áp suất tâm trương): áp suất trong lòng động mạch khi tim dãn ra giữa hai nhịp co bóp. Số trên tượng trưng áp suất cực đại (maximum) trong lòng động mạch, và số dưới tượng trưng áp suất cực tiểu (minimum) trong lòng động mạch.
Theo sự phân loại mới, áp suất systolic bình thường dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80. Áp huyết từ 140/90 trở lên được xem là cao (đo ít nhất vào 3-6 dịp thăm khám, cách nhau vài tuần đến vài tháng); cao độ 1: áp suất systolic: 140 đến 159, áp suất diastolic: 90 đến 99; cao độ 2: áp suất systolic: từ 160 trở lên, áp suất diastolic: từ 100 trở lên.
Những vị có áp suất systolic trong khoảng từ 120 đến 139, hoặc áp suất diastolic từ 80 đến 89, nay được xem là tiền cao áp huyết (prehypertension), sau dễ tiến đến cao áp huyết.
Như vậy, để tóm tắt:
- Áp huyết bình thường: áp suất systolic dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80
- Tiền cao áp huyết: áp suất systolic 120-139 hay áp suất diastolic 80-89
- Cao áp huyết:
Độ 1: áp suất systolic 140-159 hay áp suất diastolic 90-99
Độ 2: áp suất systolic từ 160 trở lên hay áp suất diastolic từ 100 trở lên.
|