|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Năm 1978, các đồng nghiệp ARMA, IFA đã cùng chúng tôi thử nghiệm lại rồi đem giảng dạy. Hiện nay trong nước cũng như bên Hoa Kỳ, nhiều cơ sở thương mại căn cứ vào tài liệu này pha chế ra bán, cũng có nơi lại chế thành viên.
Vậy lai lịch thang thuốc đó như thế nào?
2. NGUỒN GỐC
Nguồn gốc thang thuốc có nhiều tên, những tên dùng trong y-học gọi là Phục dương đại bổ tửu . Thang thuốc có nguồn gốc từ thế kỷ thứ 12.
2.1. Thiền-sư Minh Không
Niên hiệu Hội-tường Đại-thánh thứ 6 (1115) Thiền-sư Nguyễn Minh-Không (tức Lý Quốc-sư) chữa chứng bất lực cho vua Lý Nhân-tông (1066-1128) và Sùng Hiền hầu (sinh 1068), vì cả hai anh em các ngài đều bị chứng bất lực. Nguồn gốc của chứng bất lực đó do vua cha là Lý Thánh-tông (1023-1072) đã bị bất lực, được ngài Minh-Không trị khỏi, nhưng đến đời các con là vua Nhân-tông và Sùng-Hiền hầu vì dâm đãng quá độ mà bị bất lực nữa. Thiền sư Minh-Không chẩn mạch cho hai ngài. Cả hai bị thận âm, thận dương đều hư, nên ngâm rượu thang thuốc gồm 17 vị.
2.1.1. Lý triều đệ tam hoàng đế thang
Thang thuốc này còn có tên là Lý triều đệ tam hoàng đế thang. Vì vua Lý Thánh-tông là vị vua thứ ba của triều Lý.
2.1.2. Thành phần
Thang thuốc này gồm có
- 6 vị đại bổ huyết.
Trong y học Á-châu bổ huyết tức là bổ âm. Bởi theo học thuyết âm dương thì huyết thuộc âm. Đó là các vị :
Sa-sâm, Thục-địa, Bạch-thược, Đương-qui, Câu-kỷ-tử và Đào-nhân.
– 6 vị bổ khí.
Bổ khí tức là bổ dương. Đó là các vị :
Nhân-sâm, Đại-táo, Cam-thảo, Đỗ-trọng, Bạch-truật, Tục-đoạn.
– 2 vị làm cho hoạt huyết.
Tức làm cho huyết lưu thông tốt, là:
Xuyên-khung, Đại-hồi.
– 3 vị bổ tỳ.
Theo y-học Á-châu, muốn bổ dương thì phải bổ tỳ. Bởi tỳ là gốc của hậu-thiên-khí, bổ tỳ để cho ăn uống ngon miệng, tiêu hóa tốt. Đó là :
Trần-bì, Nhục-quế, Phục-linh.
– 1 vị đại bổ nguyên dương (thận dương).
Làm cho sinh tinh tủy cực kỳ mãnh liệt là:
Lộc-nhung.
Cộng chung là 18 vị. Hai anh em vua Lý đều khỏi chứng bất lực, nhưng nhà vua thì không thể có con trai, còn Sùng-hiền hầu thì có con.
Phương thuốc này, được lưu truyền dưới các tên sau :
– Minh-Không bổ dương thang,
– Nhân-tông phục dương đại bổ thang,
– Lý triều đệ tam (hoặc tứ) hoàng đế thang.
Hồi đó vua Nhân-tông cũng như Sùng-hiền hầu đều được phục hồi sinh lý. Cả hai đều có nhiều con. Nhưng vua Nhân-tông chỉ sinh công chúa, mà không sinh hoàng tử. Sùng-hiền hầu thì có cả thế tử lẫn quận chúa. Vua uống tới 25 thang. Sùng-hiền hầu uống 15 thang.
Dưới đây là phân lượng dùng cho vua Nhân-tông và Sùng-hiền hầu. Phân lượng thứ nhất là của vua Nhân-tông, phân lượng thứ nhì là của Sùng-hiền hầu.
1. Sa-sâm 1 tiền 1 tiền
2. Thục-địa 2 tiền 1,5 tiền
3. Bạch-thược 2 tiền 1,5 tiền
4. Đương-qui 3 tiền 3 tiền
5. Cam kỷ-tử 3 tiền 2 tiền
6. Đào-nhân 3 tiền 1 tiền
7. Nhân-sâm 1,5 tiền 1 tiền
8. Đại-táo 1,5 tiền 2 tiền
9. Cam-thảo 1 tiền 1 tiền
10. Đỗ-trọng 2 tiền 2 tiền
11. Bạch-truật 2 tiền 2 tiền
12. Tục-đoạn 2 tiền 2 tiền
13. Xuyên khung 2 tiền 2,5 tiền
14. Đại-hồi 1 tiền 1 tiền
15. Trần-bì 1,5 tiền 2 tiền
16. Nhục-quế 2 tiền 1,5 tiền
17. Phục-linh 2 tiền 3 tiền
18. Lộc-nhung 2 tiền 2 tiền
Thang thuốc này tùy theo từng bộ phận trong người mạnh hay yếu, tùy theo biến chứng, tùy theo thời khí của bệnh nhân mà cho vị nào nhiều hay ít, được lưu truyền xử dụng trong suốt triều nhà Lý, sang đầu triều Trần. Các y gia sau Lý Quốc-sư có sửa đổi đôi chút, nhưng căn bản vẫn nguyên vẹn. Kết quả tốt. Nhưng phải chẩn đoán cho đúng là Thận dương và âm đều hư thì mới dùng được. Nếu thận-âm hư mà dùng thì nguy hiểm, nhất là những người bị chứng âm-hư sinh nội nhiệt như : Tai kêu, áp-huyết cao (HTA), v.v... mà dùng thì tai vạ không nhỏ.
Thang thuốc trên chỉ dùng trong trường hợp thận dương hư hoặc Thận âm, thận dương đều hư mà thôi.
2.1.3. Cách pha chế
Thông thường thì ngâm rượu làm hai nước. Nước thứ nhì giảm hiệu năng 2 phần. Vậy những vị khá giả hoặc sống ở Mỹ-Úc, thuốc rẻ thì chỉ nên ngâm một nước thôi.
a. Nước thứ nhất
– Khi cắt thì yêu cầu dược phòng gói thành 2 gói. Một gói lớn gồm 16 vị, một gói gồm 2 vị Nhân-sâm, Lộc-nhung.
– Dùng 200 đến 300 g đường phèn, bỏ vào 2 lít nước đun sôi, chờ đường tan thì để nguội.
– Nghiền 16 vị gói lớn dập dạp, lớn khoảng hạt ngô. Rồi bỏ vào nước đường.
– Ngâm khoảng 3 đến 4 giờ.
– Đổ 2 lít rượu nếp trắng trên 40 độ (Rượu đế, rượu đậu nành, rượu chuối đều được). Nếu không có thì dùng Thiệu-hưng tửu, Mai-quế lộ.
– Để vào chỗ ấm áp, khô ráo. Tuyệt đối không được chôn dưới đất, hoặc cất vào nơi lạnh, ẩm ướt.
– Mỗi ngày đảo một lần.
– Sau 20 ngày thì gạn nước cốt ra. Nếu khá giả thì đổ bã đi. Bằng tiếc thì ngâm nước thứ nhì.
– Bỏ nước cốt vào bình khác, bấy giờ mới ngâm nước cốt với Lộc-nhung, Nhân-sâm.
– Sau khi ngâm 7 ngày thì bắt đầu uống.
b. Nước thứ nhì.
– Dùng 100 g đường phèn vào 1 lít nước đun sôi.
– Để nguội, rồi đổ bã vào ngâm. Sau 7 ngày thì đổ vào 1 lít rượu ngâm tiếp trong 20 ngày. Sau đó vớt bã vứt đi.
– Nước này lại ngâm với Lộc-nhung, Nhân-sâm.
2.1.4. Hiệu năng
Bổ thận dương,
Sinh tinh, ích tủy.
2.1.5. Chủ trị
a. Dùng bồi bổ sức khỏe,
Những người không bệnh, tình trạng âm dương thăng bằng, dùng phương thuốc này vô hại. Hơn nữa làm tăng tiến sức khỏe, giữ được tuổi xuân (của cả quý ông, quí bà).
Đừng ngại ngùng, khi dùng thuốc này thấy:
– Người nóng lên, tim đập mau, (trong lúc say).
– Ăn ngon.
– Tinh thần minh mẫn,
– Làm việc bằng trí óc hiệu quả tăng.
– Cường độ sex tăng.
Ghi chú dành cho các vị bác sĩ :
Những người âm dương thăng bằng khi thử nghiệm máu, tất cả đều bình thường. Sau khi uống liền 3 thang thì thấy :
– Hồng cầu tăng.
– Bạch cầu giảm.
– T3-TSH đều tăng.
– Glycémie tăng.
– Cholestérol bình thường.
– Triglycéride bình thường.
|