R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Công chúa Thủy-Tiên
Năm 1294 Thuỷ-Tiên Công-chúa (1254-1359), dưỡng nữ của Hưng-Đạo vương, phu nhân của danh tướng Phạm Ngũ-Lăo (Sự thực tước phong của Ngài là Thạc-ḥa Đoan-duệ, hiếu khang công chúa) trị bệnh cho vua Trần Anh-tông (1267-1320) đă xử dụng lại. Vua Anh-tông nhà Trần nhân v́ bị huyết-hư, tỳ-dương, thận dương hư nên bị chứng phong-thấp. Công-chúa dùng châm cứu để khu phong, tán-hàn và trục-thấp.
Nguyên tắc trị phong-thấp bằng dược Á-châu hay châm-cứu học, th́ chỉ trị cho khỏi đau, nếu khéo giữ ǵn, th́ bệnh khó tái phát. C̣n không th́ bệnh tái phát rất dễ dàng. Trị bệnh th́ chỉ có khu phong, tán-hàn là dễ, c̣n thấp th́ không bao giờ trục tuyệt cả. Loại tà này vẫn c̣n ở dưới một mức độ nào đó, nên khi ra ngoài, gặp hàn, gặp phong, là bị tái phát ngay. Bởi vậy sau khi Thủy-Tiên Công-chúa dùng châm cứu trị cho nhà vua, th́ lại dùng thang thuốc của Minh-Không thiền-sư để bổ dưỡng Thận-dương, bổ-huyết và bổ-khí để bệnh không tái phát. Tuy nhiên trong người nhà vua vẫn c̣n bị ngoại tà phong, hàn, thấp cho nên bà đă dùng 5 vị để trị phong-thấp đó là :
Thương-thuật, Khương-hoạt,
Tần-gia, Hổ-cốt, Mộc-qua.
V́ vậy thang thuốc đang từ 18 vị tăng thành 23 vị. Hiệu năng cũ là bổ thận-dương hoặc cả thận dương và thận âm nay trở thành thang thuốc : Bổ dưỡng thận dương, thận âm, bổ khí, bổ huyết và trừ Phong-thấp ở mức độ thấp. Chủ trị bây giờ thành :
– Trị chứng bất lực do di chứng của phong-thấp.
– Hoặc trị chứng bất lực cho những người ở vùng hàn-đới.
Bởi người ở vùng hàn-đới th́ không thể nào không mắc phải chứng phong-thấp, nhưng bệnh ở mức độ thấp nên không phát tác đau ốm. Tóm lại, thang thuốc trị chứng bất lực có 8 phần, th́ trị phong thấp 2 phần.
Những người bị chứng âm hư nội nhiệt như đă nói trên, hoặc huyết áp cao, đang thời gian nhiễm trùng, cảm cúm th́ không nên dùng.
2.3. Các y gia đời Lê
Năm 1433, con trưởng của vua Lê Thái-tổ là quận vương Lê Tư-Tề (1408-1438) nhân v́ trọn đời niên thiếu theo vua cha chinh chiến, nên bị chứng bất lực như vua Trần Anh-tông xưa kia. Thiền sư Trần Quang-Từ (1384-1462) lại dùng thang thuốc trên chữa cũng khỏi. Thang thuốc được dùng nhiều trong suốt thời nhà Lê gần 400 năm.
3. PHỤC DƯƠNG ĐẠI BỔ TỬU
Năm 1824, vua Minh-Mệnh bị chứng phong thấp. Nguồn gốc do ngài cư ngụ ở vùng nhiệt đới (Gia-định) suốt thời thơ ấu, lại bôn ba vất vả v́ theo phụ hoàng là vua Gia-Long chinh chiến nhiều. Y-sư Trần Ngạn-Xuân dùng thang thuốc Phong thấp tửu (xem phần thứ 3, chương thứ 5) trị phong thấp cho nhà vua. Trong thang thuốc này cũng có những vị trị phong thấp và một số ít vị bổ dưỡng. Khi nhà vua gần khỏi chứng phong thấp th́ chứng bất lực cũng khỏi, nhà vua vẫn uống thuốc, nhưng đêm đêm vui chơi với cung nga. Y-sư Trần Ngạn-Xuân phải dọa nhà vua rằng : Thang thuốc mà nhà vua dùng uống chỉ để trị phong thấp mà thôi. Nhà vua cần uống hết hai thang trị chứng phong thấp. Khi chứng này gần tuyệt, bấy giờ y-sư mới thực sự trị chứng bất lực cho nhà vua. Nhà vua hỏi tại sao chỉ mới uống phong thấp mà ngài đă thèm pḥng sự ? Y-sư trả lời rằng : Chứng phong thấp của nhà vua, một là do thuở thiếu thời Nguyên khí suy, lao khổ, ở trong vùng nóng, rồi lớn lên ở vùng lạnh (Huế), bởi vậy bệnh càng nặng. Chính phong, hàn, thấp làm cho cơ thể tổn hại thêm, thành ra bất lực. Trong thang thuốc trị phong thấp th́ có đến 8 phần trị bệnh và có 2 phần trị bất lực tức bổ dương. Khi trị phong thấp th́ cơ thể không bị tà khí làm ngăn trở, nên t́nh dục trở lại, được thêm 2 phần bổ thận dương nữa, nên nhà vua cảm thấy người khỏe mạnh. Sự thực sự khỏe mạnh đó chưa phục hồi. Đợi sau khi nhà vua uống hết hai thang thuốc trị phong thấp, rồi lại được uống hai thang thuốc bồi bổ cơ thể nữa th́ mới thực sự khỏe mạnh.
Bị dọa, nhà vua không c̣n dám pḥng sự nữa, cứ kiên tâm uống thuốc, nhưng thực sự ngài rất thèm pḥng sự, mà không dám, sợ bị bất lực vĩnh viễn như y-sư dọa. Sau khi uống hết thang thuốc trị phong thấp thứ nh́, y-sư cho nhà vua uống thang thuốc mà thành phần như sau :
Lấy thang thuốc của Thủy-Tiên Công-chúa, mà thêm vào một số vị.
3.1. Thành phần
Những vị thêm vào là:
– 3 vị trị phong thấp: Pḥng-phong, Độc-hoạt, Hồng-cúc.
– 1 vị đại bổ can, thận : Hà-thủ-ô.
Như vậy thành phần cuối cùng của thang thuốc mà vua Minh-Mệnh được uống là :
Phục dương đại bổ tửu
– 8 vị bổ thận-âm, bổ huyết và tinh khí :
Sa-sâm 5 tiền, Thục-địa 5 tiền, Đương-quy 5 tiền, Kỷ-tử 1 tiền, Đào nhân 5 tiền, Xuyên khung 3 tiền, Bạch thược 5 tiền, Hà-thủ-ô 5 tiền.
– 10 vị đại bổ nguyên dương (Thận dương),
Đại táo 5 tiền, Cam thảo 2 tiền, Đỗ trọng 3 tiền, Tục đoạn 2 tiền, Bạch truật, 3 tiền Trần b́ 3 tiền, Nhục quế 3 tiền, Đại hồi 2 tiền, Nhân sâm 4 tiền.Lộc nhung 5 tiền.
– 9 vị trị Phong thấp:
Thương thuật 2 tiền, Hồng cúc 2 tiền, Khương hoạt 2 tiền, Tần gia 2 tiền. Hổ cốt 2 tiền, Phục linh 3 tiền, Pḥng phong 3 tiền, Độc hoạt 2 tiền, Mộc qua 2 tiền.
Cộng chung 27 vị nặng 8 lượng 6 tiền (268,75 g)
Tóm lại diễn tiến của thang thuốc từ khởi thủy là Minh-Không thiền sư cho đến y-sư Trần Ngạn-Xuân như sau :
Minh-Không . Xử dụng 18 vị để trị chứng bất lực, không con cho 2 vị đời Lư vào năm 1115. Thuốc chỉ trị chứng bất lực nguồn gốc do di truyền. Đời cha đă bất lực, đời con pḥng sự quá độ bị bất lực và không con. Thang thuốc bổ cả thận âm, lẫn thận dương. Kết quả hai bệnh nhân khỏi bất lực, nhưng chỉ 1 người có con.
|