|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Học Để Sống Và Hiểu Bản Thân - Nguyễn Hữu Đức
Có người cho rằng, con người là một động vật kỳ lạ v́ phải dành đến hàng chục năm để học mới có thể lo cho cuộc sống của ḿnh ở mức trung b́nh. Điều này hoàn toàn khác với động vật khác khi hầu hết đều có thể tự lo cho cuộc sống của ḿnh gần như ngay khi mới ra đời.
Theo tôi chính việc học là một phần của cuộc sống, để giúp con người chính là “người” khi xóa bỏ dần tàn dư “con” đeo bám suốt đời nhờ vào việc học. Ngẫm lại riêng cuộc đời ḿnh đă trải qua 65 năm, tôi thấy ḿnh đă dành phần lớn cho việc học nhưng gần như rất hiếm khi tự hỏi: “Học để làm ǵ, v́ sao phải học?” Thời gian học tiểu học với tuổi đời c̣n qua nhỏ, học mà không biết để làm ǵ là chuyện thường t́nh. Nhưng suốt thời gian học trung học, tôi chỉ biết học v́ mẹ tôi bảo phải thế và v́ thấy bạn bè ḿnh ai cũng phải học. Đến khi học đại học, nhờ thi đậu vào trường đại học dược khoa, tôi tự ḿnh h́nh dung học để trở thành dược sĩ. Nghĩa là học để biết, để làm một nghề nuôi sống ḿnh suốt cuộc đời sau này.
Nh́n lại nền giáo dục của nước Việt Nam trong thời gian qua ta thấy nhiều yếu kém. Đến độ phải đặt vấn đề “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Suy đi ngẫm lại muốn đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục trước hết phải trả lời câu hỏi rất hiếm người tự hỏi: “Học để làm ǵ, v́ sao phải học?” Như tôi, sau 65 năm sống trên đời dành phần lớn cho việc học, nhờ đọc bài báo nói về bốn trụ cột của việc học, khi đó mới đặt ra câu hỏi cho riêng ḿnh “Thật sự ḿnh đă học để làm ǵ?”
Khi chuẩn bị bước vào thiên nhiên kỷ mới, thấy rằng học để làm ǵ thật sự là vấn đề rất lớn của mọi hoạt động giáo dục, cho nên Ủy ban Quốc tế về Giáo dục của Cơ quan Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thuộc Liên hiệp quốc (UNESCO) đă công bố bốn trụ cột cho việc học dựa vào trả lời cho câu hỏi: “Học để làm ǵ?”. Theo UNESCO, học làm 4 việc sau, bốn tức 4 trụ cột của giáo dục theo tiếng Anh là: “learning to know, learning to do, learning to live together and learning to be” Dịch sang tiếng Việt, ba việc đầu là: học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác”, nhưng việc thứ tư th́ ôi thôi, tiếng Việt ḿnh phong phú quá, được dịch thành hàng lô việc như sau: học để xác lập ḿnh, học để hoàn thiện ḿnh, học để sống cho ḿnh, học để khẳng định bản thân.
Riêng “học để khẳng định bản thân” có vẻ được chuộng nhất v́ đă có một số trường học trương bảng hoành tráng hoặc sơn chữ to trước mặt tiền trường nêu bốn trụ cột: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định bản thân”.
Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, trước đây đă được trang trọng phô trương ở các trường, nay vẫn giữ lại nhưng xem có vẻ khép nép nếu đứng cạnh bốn trụ cột đó. Nói là khép nép v́ tính chất quá xưa cũ so với hiện đại nhưng “Tiên học lễ, hậu học văn” vẫn c̣n lư do tồn tại v́ t́nh trạng xuống cấp của đạo đức xă hội vẫn nhan nhăn trong cuộc sống.
“Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác” dịch từ ba trụ cột việc học của UNESCO có thể xem tạm ổn. Ngẫm lại từ cuộc đời ḿnh, suốt thời gian đi học, tuy không đặt ra câu hỏi: học để làm ǵ? nhưng tôi thật sự mường tượng học để biết. Tôi đă học nhiều môn học để kiến thức hiểu biết về thế giới, về cuộc sống xung quanh, về đất nước dân tộc ḿnh ngày càng tăng trưởng. Về học để làm, học để chung sống phải đợi đến lúc bước chân vào đại học cũng thế, tức không đặt ra câu hỏi để làm ǵ, tôi cũng mường tượng việc học ở giai đoạn nay là để biết, để làm những việc của một dược sĩ hành nghề sau này và học để chung sống với người bệnh cần dùng đến thuốc, với các đồng nghiệp tiếp xúc hằng ngày và với cả xă hội cần khỏe mạnh về thể chất và tinh thần.
C̣n việc sau cùng nếu gọi là học để khẳng định bản thân hay học để xác lập ḿnh, học để sống cho ḿnh dịch từ trụ cột thứ tư việc học của UNESCO th́ tôi thấy không ổn. V́ sao như vậy? Chính các từ như “khẳng định”, “xác lập”, “sống cho ḿnh” rất dễ tôn sùng “cái tôi” đưa đến bóp méo, làm sai lệch mục đích của việc học. Trên con đường phát triển, con người luôn luôn hiện hữu với “cái tôi” xấu xí.
Thoát thai từ một động vật, con người dính liền với bản năng luôn phóng chiếu của đủ loại dục vọng. Đơn cử, một nhu cầu động vật trong con người là luôn mong muốn an toàn, an toàn về thể chất và an toàn về tinh thần - tâm lư và thường v́ sự an toàn đó mà bất kể lợi ích của tha nhân. Từ đó con người sinh ra tham lam, đố kỵ, tị hiềm… trong quan hệ với nhau.
Suốt quá tŕnh tồn tại và phát triển, con người gây ra biết bao tàn nhẫn, khổ đau cho ḿnh và cho người xuất phát từ “cái tôi” luôn muốn được bành trướng phóng hiện, cái “bản ngă” chứa quá nhiều dục vọng. Có người nói: “Con người tự do phải là đích đến của giáo dục”. Thật ra, con người tự do không phải là con người sống bất kể các quy luật hài ḥa của cuộc sống và các định chế cần thiết của xă hội, mà con người tự do phải là con người giải thoát khỏi những dục vọng thấp hèn, giải thoát khỏi “cái tôi” gắn với “con” thay v́ “người”. Chính v́ vậy, một mục tiêu của việc học phải là làm cho con người tự do, tức trở thành “vô ngă” để làm chủ được ḿnh, giải phóng ḿnh khỏi tham sân si, kiểm soát ḿnh để không nô lệ vào “cái tôi” thấp hèn nhưng ma mảnh, quỷ quyệt. Điều kiện tiên quyết để con người “vô ngă” là con người phải thấu hiểu “cái tôi” ma mảnh quỷ quyệt, cái “bản ngă” do nhu cầu động vật cứ hướng về sự thấp hèn.
Từ cột trụ “learning to be” có nghĩa là “học để sống” mà dịch thành “học để khẳng định bản thân”, “học để xác lập ḿnh” hay “học để sống cho ḿnh” dễ đi đến học để khẳng định, xác lập “cái tôi” ma mảnh, “cái tôi” bao hàm “con” hơn “người”. Có người dịch cột trụ thứ tư là “học để hoàn thiện ḿnh” chính là để không nhập nhằng với cái tôi đáng ghét mà hướng đến sự hoàn thiện nhờ giáo dục. Tuy nhiên, như thế lại không lột tả được nghĩa của “to be”.
Sau khi phân tích như trên, tôi mạo muội đề nghị cột trụ thứ tư của việc học là “học để sống và hiểu bản thân”. Toàn bộ bốn cột trụ việc học theo UNESCO theo tôi là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để sống và hiểu bản thân”. Chính trụ cột “học để sống và hiểu bản thân” sẽ làm cho ba trụ cột kia càng rơ nghĩa.
Ở nước ta, mục đích học để làm quan đă ăn sâu vào tâm năo dân ta rất lâu rồi, cho nên cho đến nay “học để biết, học để làm” vẫn là tập trung học để nhồi nhét thật nhiều kiến thức và làm th́ qua loa và cũng chỉ để thi (để được làm quan mà). Học để biết, để làm xem kỹ lại chính là “học để thi”. Rơ ràng khi mọi người từ dạy đến học, thấm nhuần “học để sống và hiểu bản thân”, sẽ thấu hiểu nguyên nhân của sự biến dạng “học để biết, học để làm” thành “học để thi” chỉ v́ “cái tôi” tham lam, chạy theo mong cầu không chính đáng. Khi quan hệ ḿnh với bản thân ḿnh được thấu hiểu để có sự phản tỉnh, khi đó bản thân được tỉnh ngộ. Thế là người ta sẽ chuyển hóa để việc học là học để biết để làm thật sự chứ không phải chỉ để thi.
C̣n “học để chung sống với người khác” ở nước ta th́ như thế nào?. Trong thời gian dài, ở ta chính khẩu hiệu “Ḿnh v́ mọi người, mọi người v́ ḿnh” đă trở thành nền tảng cho việc học để chung sống với người khác. Ḿnh v́ mọi người nhưng bản thân ḿnh không hiểu chính ḿnh. Ḿnh không hiểu là ḿnh luôn luôn bị “cái tôi” thiên về “con” khống chế, kiểm soát, thôi thúc để luôn xảy ra cảnh trạng “ḿnh v́ mọi người một cách ma mảnh dối trá, ngược lại, mọi người v́ ḿnh với bản thân ḿnh luôn t́m cách phóng đại, bành trướng”.
Chính “học để sống và hiểu bản thân” sẽ là tiền đề vững chắc để “học để chung sống với người khác” chính là “ḿnh v́ mọi người, mọi người v́ ḿnh” thực hiện một cách hoàn thiện. Chỉ khi đó, việc học để chung sống với người khác mang tính chất “vô ngă” tức sống chung với người khác mà không bị “cái tôi” xấu xí chen vô quấy rầy.
|