|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Bốn ngày sau, chiếc thuyền mong manh của những thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản may mắn được một con tàu buôn của Ư trông thấy. Họ đến gần và cho tất cả người tỵ nạn lên tàu của họ, cho ăn uống. Họ đặc biệt cho bé Biển nhiều món quà quư, trong đó có một cái mỏ neo nhỏ như một lóng tay, – làm bằng vàng, biểu tượng của chiếc thương thuyền -, sau khi nghe kể em được sỉnh ra vài ngày trước đó trên sàn con thuyền mong manh không có một dụng cụ thuốc men nào, ngoài sự can đảm của mẹ em, và sự tận t́nh của một bác sĩ trẻ được đào tạo ở Đại học Y khoa Saigon trước năm 1975. Như luật hàng hải quốc tế v́ sinh ra ở hải phận quốc tế nên bé Biển có quốc tịch Ư, chiếc tàu đầu tiên có mang cờ một quốc gia em được mang lên.
Trước khi đưa từng thuyền nhân lên tàu lớn, họ có ghi lại h́nh ảnh của chiếc ghe mong manh và những thuyền nhân mặt mày hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ v́ biết chắc chắn ḿnh sẽ đến được bến bờ tự do. Ông thuyền trưởng đích thân ra trước mũi tàu chụp h́nh. Bên kia, bác sĩ Vinh được những người trong ghe cử ra nói chuyện với đại diện của tàu Ư. Vinh cũng đứng trước mũi của chiếc ghe tỵ nạn, bên cạnh chiếc tàu buôn như một em bé gầy yếu đứng trước một người khổng lồ. Tấm h́nh đó không một người tỵ nạn nào có dịp trông thấy. Ngoài một số người muốn được định cư ờ Ư, tất cả thuyền nhân c̣n lại được đưa đến trại tỵ nạn và được đi định cư ở nhiều nước khác nhau.
Ông thuyền trưởng nghe Vinh kể chuyện đỡ đẻ rất hiếm hoi đă giơ cả hai tay lên trời:
– Tôi cảm phục ḷng can đảm của sản phụ, tôi cảm phục sự b́nh tĩnh và tận t́nh của bác sĩ. Tôi cảm phục ḷng quả cảm của tất cả các bạn. Thượng Đế đă phù hộ các bạn.
Ông ta c̣n nói nhiều điều nữa, nhưng Vinh chỉ nhớ câu đó, và nhớ nụ cười hiền từ nhân hậu của người thuyền trưởng người Ư da trắng. tóc đen.
Vinh đến Mỹ vào cuối năm 1979, đi học lại một số lớp để có thể thi lấy bằng Medical Doctor ở Mỹ và thi lấy giấy phép hành nghề. Kiến thức của những năm Y khoa Saigon giúp Vinh rút ngắn được hơn nửa đường học tŕnh của một Bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ. Cứ lấy các “equivalent test” của từng giai đoạn, đậu được mỗi bài test là khỏi phải học ít nhất là hai học kỳ (tương đương một năm). Cứ từ dễ đến khó, Vinh lần lượt đậu từng bài thi và không phải học lại, chỉ phải đi thực tập nội trú (Internship) trong một bệnh viện ở New York trước khi được cấp bằng hành nghề. Lúc đó c̣n trẻ, chưa lập gia đ́nh, dù không phải học lại 5 năm đầu của chương tŕnh Y khoa ở Mỹ, Vinh vẫn chăm chỉ đọc sách và học thêm một lớp căn bản về “Business Law”.
Mỗi tuần làm việc từ bốn đến năm mươi giờ ở bệnh viện từ pḥng cấp cứu đến các pḥng bệnh nội trú, Vinh gặp bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi, mọi màu da. Có người suốt ngày rên rỉ, có người chỉ nhăn mặt khi thiếu thuốc giảm đau, có người luôn cố giữ nụ cười lạc quan để thêm tinh thấn chiến đấu với bệnh tật. Không có ai can đảm như người sản phụ thuyền nhân giữa đại dương năm nào, kể cả những người sinh con giữa một bệnh viện đầy đủ thuốc men, dụng cụ, y tá, bác sĩ, đă được chích thuốc giảm đau mà vẫn rên la.
Xong một năm nội trú ở New York, những ngày đầu chính thức hành nghề y khoa trong một bệnh viện ở Chicago, những khuôn mặt bệnh nhân đủ mọi cá tính đến rồi đi trong từng ngày làm việc của Vinh, vẫn chưa có ai vượt qua được sự can đảm chịu đựng của người sản phụ trên chiếc ghe mong manh vượt biển ngày trước. Giữa những tiện nghi dành cho một bác sĩ ở Mỹ, thỉnh thoảng Vinh vẫn nhớ đến nước Thái b́nh dương đă rửa tay cho ḿnh và tắm cho em bé sinh giữa đại dương. Vị mặn của nước biển có thể sát trùng một cách tương đối, đă giúp một em bé thuyền nhân chào đời an toàn, khỏe mạnh trên sàn ghe giữa biển trời mênh mông.
Họp mặt truyền thống chs Ngô Quyền lần thứ XIII – JUL 2014 ở Milpitas, California.
Nhân vật chính: BS Huỳnh Quan Minh– cựu học sinh NQ K6- trước micro.
Tác giả NTDH áo dài trắng, đứng giữa hai đàn anh Ngô Quyền.
Rồi Vinh lập gia đ́nh, dọn về San Jose ở California với khí hậu ven biển ấm hơn giống Việt Nam hơn, và để một lúc nào đó những đứa con chào đời sẽ có nhiều cơ hội học tiếng Việt hơn. Lúc đó là đầu thập niên 80s, cộng đồng Việt Nam ở Mỹ chưa lớn mạnh, những lần hiếm hoi gặp bệnh nhân người Việt ở bệnh viện Kaiser, họ cứ hỏi Vinh có khám thêm ở nhà ngoài giờ làm việc để họ đến nhờ giúp khi bệnh hoạn. Một, hai, năm, bảy rồi cả chục lần được yêu cầu như vậy, Vinh quyết định xin thôi việc ở bệnh viện, mở pḥng khám tư, tự do hơn.
Lần đầu tiên mở pḥng khám tư, lại là pḥng khám ở Mỹ, một nơi mà nguyên tắc, và luật pháp rất nghiêm nhặt,Vinh phải ṃ mẩm từng bước để xây dựng pḥng khám bệnh của ḿnh. Thời đó, đầu thập niên 80s, cộng đổng tỵ nạn của người Việt c̣n non trẻ, bệnh nhân của Vinh thuộc đủ mọi chủng tộc, từ những người bản xứ hay đến pḥng mạch của ông bác sĩ trẻ c̣n giữ nguyên tính kính trọng người lớn tuổi của người Việt Nam, đến những người di dân gốc Nga, gốc Tàu, gốc Ư, gốc Mễ… Và dĩ nhiên cũng có những bệnh nhân Việt Nam chịu khó lái xe vài chục dặm để được một bác sĩ đồng hương chăm sóc.
Cũng chính nơi đây, Vinh gặp lại nhiều bạn học đă mất liên lạc từ ngày xong tú tài, mỗi người mỗi ngả.
Phúc và Lan di tản từ tháng 4 năm 1975, vẫn không thay đổi nhiều so với ngày c̣n ở Trung học, tương đối thành công, vẫn mang theo cả một thời mới lớn ở Việt Nam có những lư tưởng màu hồng dù lâu lâu vẫn nghe tiếng súng vọng về từ một chiến trường nào đó rất gần thành phố.
Xuân đi từ trường Ngô Quyền vào trường Vơ bị, vừa cởi áo trắng học tṛ, khoác ngay áo treillis của lính, không có th́ giờ mặc áo dân sự giữa một đất nước chiến tranh. Nước mất, Xuân phải vào “trại cải tạo”, mặc áo màu sậm, xám xịt như đời “tù… không có tội”. Ra khỏi nhà tù nhỏ, Xuân về nhà tù lớn chỉ vài tháng rồi vượt biển, và chịu khó cắp sách đi học lại đến ngày thành kỹ sư ở thung lũng điện tử của miền Bắc California.
Tuấn rời Việt Nam qua Nhật du học từ năm mười tám. Học vừa xong, th́ nước mất, không c̣n nhà, không c̣n quê hương để quay về. Một sáng đầu tháng 5 năm 1975, mở mắt dậy, bỗng dưng thành một người “vô gia đ́nh, vô tổ quốc”, Tuấn quyết định đi xa hơn nữa khi Mỹ cấp free pass vào Hoa Kỳ cho các sinh viên VN đang du học ở các nước tự do trên thế giới vào thời điểm tháng 4 năm 1975. Tuấn ổn định đời sống ở Mỹ từ năm 1976. Phiêu bạt từ Việt Nam qua Nhật, rồi Mỹ, ở đâu người bạn thân của Vinh cũng mang theo h́nh ảnh hiền ḥa, thâm trầm như nhân vật cùng tên trong “Tuấn chàng trai nước Việt”.
Tấn đậu tú tài, vào Không quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, về nước chưa kịp đóng góp nhiều cho đất nước th́ “chim găy cánh mây ngừng trôi “, Tấn vô tù v́ vận nước, rồi trở về làm đủ mọi nghề để sống đến khi được qua Mỹ theo diện HO, là người đến đất nước tự do muộn màng nhất trong lớp.
Cả một cái lớp tứ hai ở Ngô Quyền xưa lưu lạc khắp nơi trên thế giới, gần một phần tư lớp hội tụ ở San Jose, mỗi lần gặp nhau vui hơn Tết, chuyện tṛ râm ran, tiếng cười vang lên như ngày xưa c̣n ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ở quê nhà.
Nhưng vui nhất là lần Vinh gặp thầy Hợp, thầy dạy Toán năm đệ tam ở quê nhà. Thầy định cư ở Mỹ vảo thập niên 90s, lúc đó cộng đồng Việt Nam ở vùng thung lũng điện tử San Jose đă quần tụ khá đông. Chân ướt chân ráo ở quê người, chưa có xe, từ nhà, Thầy đi hai chuyến xe bus đến khu vực thuơng mại đông đúc nhất của người Việt ờ San Jose, lấy một tờ báo quảng cáo để t́m một ông bác sĩ đồng hương ở quê người. Và thầy t́m ra cậu học tṛ thông minh, hiền lành năm xưa đang hành nghề “lương y” ở một con đường yên tĩnh gần downtown. Trong mục quảng cáo của một tờ báo VN, trong danh sách các Bác sĩ Việt Nam ở San Jose, thầy Hợp t́m thấy tên của cậu học tṛ thông minh, hiền lành ở cù lao Phố, Biên Ḥa ngày xưa. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng ở nhiều trường Trung học lớn ngày xưa, như một người lái đ̣ đưa hàng ngàn người khách qua sông; có một vài khuôn mặt, vài cái tên Thầy không hề quên.
|