|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Đây cũng lại là một câu hỏi rất giản dị và tự nhiên, không có lư do ǵ để đưa vào đấy những ư tưởng xa xôi về Ngă hay Linh hồn. Họ trả lời tốt hơn nên t́m kiếm chính ḿnh. Phật liền bảo họ ngồi xuống và giảng pháp cho họ nghe. Theo bài pháp mà Phật đă giảng cho họ c̣n ghi lại trong kinh điển nguyên thủy, không có một chữ nào nói về ngă.
Người ta đă viết nhiều về đề tài “sự im lặng của Phật”, khi một du sĩ tên Vacchagotta hỏi Ngài có ngă hay không. Câu chuyện như sau:
Vacchagotta đi đến đức Phật và thưa hỏi:
– Thưa Ngài Cồ-đàm, có ngă hay không?
Đức Phật lặng im.
– Thế th́ thưa Ngài, không có ngă sao?
Đức Phật lại im lặng.
Vacchagotta đứng dậy bỏ đi.
Sau khi du sĩ (parivràjaka) rời khỏi, A-nan hỏi Phật v́ sao Ngài đă không trả lời câu hỏi của Vacchagotta. Phật giải thích thái độ của Ngài như sau:
– Này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Có ngă hay không?” , nếu trả lời: “Có” là ta đă đứng về phe các sa môn, Bà la môn chủ trương thuyết trường tồn (sassatavàda). Và này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Không có ngă hay sao?” nếu trả lời “Không” là ta đă đứng về phe các sa môn Bà la môn chủ trương thuyết đoạn diệt (uccheda vàda)[26].
Lại nữa, này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Có ngă không?”, mà ta trả lời: “Có” th́ như thế có phù hợp với sự thấy biết của ta rằng vạn pháp là vô ngă hay không?”[27]
– Bạch Thế Tôn, hẳn là không.
– Lại nữa, này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Không có ngă hay sao?” mà ta trả lời: “Không”, th́ sẽ làm cho Vacchagotta đă hoang mang lại càng hoang mang thêm nữa[28]. V́ y sẽ nghĩ: “Trước kia quả thật ta có ngă, nhưng bây giờ ta không có nữa.” [29]
Bây giờ hẳn là ta phải hiểu rơ v́ sao Phật im lặng. Nhưng ta sẽ c̣n hiểu rơ hơn nếu xét toàn thể bối cảnh và cách Phật xử trí về những câu hỏi và người hỏi – điều mà những người bàn đến vấn đề ấy hoàn toàn bỏ qua.
Phật không phải như một máy tính tuôn ra đáp số cho bất kỳ câu hỏi nào, do bất cứ ai đặt ra, không cần suy xét. Ngài là một bậc Đạo sư thực tiễn, đầy từ bi và trí tuệ.
Ngài không trả lời câu hỏi để phô bày kiến thức và thông minh của ḿnh, mà để giúp người hỏi trên đường đạt đến thực chứng. Khi nói với người nào Ngài luôn luôn quan tâm đến tŕnh độ phát triển của họ, khuynh hướng của họ, cấu tạo tâm thức của họ, tính t́nh họ và khả năng họ để lĩnh hội vấn đề[30].
Theo Phật, có bốn cách đáp câu hỏi:
1. Có khi nên trả lời thẳng câu hỏi.
2. Có câu hỏi cần trả lời bằng cách phân tích.
3. Có khi nên trả lời bằng cách hỏi ngược lại.
4. Và cuối cùng, có những câu hỏi nên dẹp, không đáp[31].
Có thể có nhiều cách dẹp một vấn đề. Một cách là bảo vấn đề ấy không có giải đáp, đó là cách Phật đă có lần xử dụng với du sĩ Vacchagotta ấy, khi ông đặt những câu hỏi nổi tiếng về vũ trụ trường tồn hay không v.v..[32].
Cũng với cách ấy, Ngài đă trả lời cho Màlunkyaputta và những người khác. Nhưng Ngài không thể làm vậy về vấn đề có ngă hay không, v́ Ngài đă luôn luôn thảo luận và giảng giải nó. Ngài không thể nói: “Có ngă” v́ nó trái ngược với kiến giải của Ngài rằng tất cả các pháp vô ngă.
Và Ngài cũng không muốn nói không có linh hồn, v́ như thế là vô cớ làm cho anh chàng tội nghiệp Vacchagotta đă hoang mang càng hoang mang thêm, như chính anh ta đă công nhận[33].
Anh ta chưa đủ căn cơ để hiểu về vô ngă. V́ vậy trong trường hợp này, dẹp câu hỏi sang một bên bằng cách im lặng, là thái độ khôn ngoan nhất.
Ta cũng đừng quên rằng Phật đă biết rơ Vacchagotta từ lâu. Đây không phải dịp đầu tiên mà người du sĩ thắc mắc ấy đến thăm Phật. Đấng Đạo sư đầy trí tuệ và từ bi đă lưu tâm chú ư nhiều đến con người t́m kiếm hoang mang này. Có nhiều đoạn nói đến du sĩ Vacchagotta trong các bản kinh Pàli, ông đă từng t́m đến Phật và các môn đệ Ngài khá nhiều lần, lặp đi lặp lại nhiều lần cùng những câu hỏi ấy, rơ ràng ông rất băn khoăn, hầu như bị vấn đề kia ám ảnh[34]. Sự im lặng của Phật có lẽ đă có hiệu quả đối với Vacchagotta hơn bất cứ một sự trả lời hay thảo luận hùng hồn nào[35].
Một vài người xem ngă có nghĩa là cái ǵ thường được gọi là “tâm” hay “thức”. Nhưng Phật dạy rằng chẳng thà người ta nên xem thân xác vật lư của ḿnh là “ngă” c̣n hơn xem tâm, ư hay thức (citta, mano,vinnàna) là ngă v́ tâm, ư hay thức th́ biến đổi không ngừng ngày cũng như đêm, thay đổi c̣n mau chóng hơn cả thể xác (kàya)[36].
Chính cảm giác mơ hồ “có tôi” đă phát sinh ư tưởng về ngă, vốn không có cái ǵ tương đương trong thực tại: và thấy được chân lư ấy tức là thực chứng Niết-bàn, một điều không phải dễ dàng cho lắm.
Trong kinh Tương ưng bộ Samyuttanikàya[37], có một cuộc đàm thoại khá làm sáng tỏ vấn đề về điểm này giữa thầy Tỳ kheo tên Khemaka và một nhóm Tỳ kheo. Những vị này hỏi Khemaka có thấy trong Ngũ uẩn một cái “ngă” nào hay bất cứ ǵ thuộc về “ngă” không. Khemaka trả lời “không”. Đoạn những Tỳ kheo bảo nếu thế th́ ông ta phải là một vị La hán đă thoát khỏi mọi ô nhiễm. Nhưng Khemaka thú thật rằng mặc dù ông không t́m thấy trong Ngũ uẩn một cái ngă nào hay bất cứ ǵ thuộc về ngă, “tôi vẫn không phải là một La hán (Arahant) đă thoát khỏi mọi ô nhiễm bất tịnh. Này chư hiền, đối với Ngũ thủ uẩn, tôi có cảm giác rằng “có tôi”, nhưng không thấy rơ “cái này là cái tôi”. Rồi Khemaka giải thích rằng cái ông ta gọi là “tôi” không phải sắc, không phải thọ, không phải tưởng, không phải hành, cũng không phải thức, cũng không phải bất cứ ǵ ngoài chúng. Nhưng ông vẫn có một cảm giác “có tôi” đối với 5 thủ uẩn, mặc dù ông không thể thấy rơ “Đây là cái tôi.”[38]
Khemaka nói cũng giống như mùi thơm của một bông hoa: nó không phải là mùi thơm của các cánh hoa, không phải của màu hoa, không phải của đài hoa, nhưng là mùi thơm của hoa. Ông c̣n giải thích thêm rằng ngay cả một người đă đạt đến những giai đoạn đầu tiên của sự thực chứng vẫn c̣n có cảm giác “có tôi” ấy. Nhưng về sau, khi tiến xa hơn, cảm giác ấy hoàn toàn biến mất, hệt như mùi hóa học của một chiếc áo mới giặt sẽ bay mất một thời gian sau khi ra khỏi chiếc hộp đựng nó.
|