Bài Tâm Kinh ngắn (tức là bản kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa tóm lược chỉ gồm vài mươi câu) mà hàng triệu người Phật Giáo Đại Thừa tŕ tụng hằng ngày bằng tiếng Hán, tiếng Tây Tạng hay tiếng Phạn (có nghĩa là các Phật Tử khắp nơi ở Á Châu tụng niệm hằng ngày) hàm chứa một câu thật chủ yếu, đấy là câu nêu lên thật rơ ràng rằng:
“H́nh tướng là tánh không và tánh không là h́nh tướng; h́nh tướng không khác với tánh không và tánh không cũng không khác với h́nh tướng”.
Mặc dù ư nghĩa thâm sâu và đích thật của câu này có thể không được diễn tả một cách thật minh bạch đi nữa, thế nhưng nó cũng đủ để nêu lên cho ta thấy là tánh không là một thứ ǵ đó hoàn toàn không phải là một thể dạng hư vô đơn thuần. Các lời b́nh giải thường thấy [từ trước đến nay] về ư nghĩa của câu này không hề có một sự phân tách chính đáng nào giữa sự tuyệt đối và tương đối, giữa hiện thực và những biểu hiện bên ngoài của các hiện tượng, giữa cội nguồn và vũ trụ (chẳng hạn như “người sáng tạo” và những ǵ đă “được sáng tạo”).
Nếu cho rằng không có một sự hiện hữu nào có thể độc lập và mang tính cách tự tại được (tức phải nhờ vào hiện tượng tương liên và tương tạo mà có) th́ sẽ chẳng có bất cứ ǵ là thật cả, đấy chẳng qua là những hiện tượng mang tính cách tạm thời (bởi v́ mỗi hiện tượng cũng chỉ là một sự kết hợp của hàng triệu hiện tượng khác và các hiện tượng này th́ cũng phù du hơn cả chính nó): thế nhưng tất cả lại hiện ra rất thật. Tóm lại nếu hiểu đấy chỉ là những biểu hiện của sự hiện hữu [nói chung] và không hề mang một thuộc tính [cá biệt] nào th́ chúng cũng sẽ chỉ là những thứ ǵ đó không thể nào nắm bắt được (tức có nghĩa là không thể định nghĩa hay quy định chúng một cách rơ rệt và cố định được, bởi v́ chúng luôn chuyển động, hiện ra rồi mất đi, sự chuyển động đó – c̣n gọi là vô thường – chỉ là biểu hiện bên ngoài và tạm thời của hiện thực).
Chúng ta hăy thử nêu lên một thí dụ thật thô thiển, chẳng hạn như các gợn sóng trên mặt biển: chúng không hề mang tính cách trường tồn, cũng không hề hàm chứa một sự hiện hữu nào, mà luôn biến đổi trong từng khoảnh khắc một, chúng hoà lẫn vào nhau và biến mất ngay sau đó – thế nhưng có ai dám bảo rằng không có một thành phần nào của các gợn sóng sẽ c̣n tiếp tục hiện hữu, khi mà biển cả vẫn c̣n đấy? Sự so sánh trên đây không phải là không có kẽ hở, bởi v́ một gợn sóng dù xảy ra vào một thời điểm nào th́ nó vẫn chỉ là biển cả, dù không phải là toàn bộ biển cả thế nhưng cũng là thành phần của biển cả. Trong khi đó nếu nói đến tánh không th́ sẽ chẳng có ǵ liên hệ với bất cứ một thứ ǵ nằm trong sự chi phối của các quy luật liên quan đến không gian (một gợn sóng lệ thuộc vào biển, thế nhưng tánh không th́ không liên quan ǵ đến không gian, dù đấy là không gian “trống không”) v́ thế dù chỉ là một hạt “vi thể” thế nhưng nó vẫn có thể biểu trưng cho sự toàn diện (“một chút” tánh không hay “toàn thể” tánh không th́ cũng chỉ là “tánh không”, “một chút” hiện thực cũng là toàn bộ “hiện thực”, một “hạt cát” cũng là toàn thể “vũ trụ”, các hiện tượng cũng chỉ là những biểu hiện bên ngoài và tạm thời của một sự “hiện hữu” chung).
Chính v́ thế mà những người Trung Quốc (nên hiểu là các vị đại thiền sư Trung Quốc trong quá khứ) thường chọn cách so sánh h́nh ảnh mặt trời phản chiếu trong nước chứa trong các chậu, b́nh, hay ao hồ khác nhau. Huai-Hai (Huệ Hải – c̣n gọi là Đại Châu Huệ Hải – một vị đại thiền sư Trung Quốc, 720-814) có nói rằng: mỗi chậu, b́nh hay ao hồ đều chứa đựng một mặt trời (mặt trời phản ảnh trong nước), mỗi [h́nh ảnh] mặt trời ấy đều nguyên vẹn và giống [như đúc] với mặt trời trên không trung…, thế nhưng mặt trời trên không trung lại không hề bị sứt mẻ (giảm bớt đi) một chút nào”.
Vị thiền sư nói lên câu trên đây cũng đă từng đề cập đến sự Giác Ngộ và xem đấy như là “sự thực hiện được thực thể của h́nh tướng và cả tánh không” (quán nhận được bản chất của h́nh tướng và cả của tánh không chính là sự Giác Ngộ). Thế nhưng trong một đoạn khác th́ vị này cũng lại cho biết là có hai thứ tánh không khác nhau: một thứ liên hệ đến những ǵ “không-tánh-không” và một thứ khác là “tánh-không-tối-hậu” vượt lên trên tính cách nhị nguyên giữa tánh-không và không-tánh-không (non-vacuité / non-emptiness).
Thật hết sức hiển nhiên: tánh không mà một vị thần bí (một người tu tập cao thâm) nhận biết truớc hết qua kinh nghiệm cảm nhận của ḿnh là thứ tánh không thứ nhất trong hai thứ tánh không trên đây (tức là thể dạng không-tánh-không), bởi v́ vị này đă đạt được tánh không đó bằng một thể dạng tri thức “thông thường” tức là thể dạng thường xuyên chi phối bởi “không-tánh-không” (tức là thể dạng tri thức nhận biết được h́nh tướng hay những biểu hiện bên ngoài của mọi hiện tượng, nói cách khác là một thể dạng tri thức luôn hiện ra chủ thể và đối tượng), và sau khi đă thực hiện được những kinh nghiệm cảm nhận thần bí (giúp ḿnh cảm nhận được “tánh-không-tối-hậu”) th́ vị ấy mong đợi sẽ có thể t́m trở lại được thể dạng trước đó (tức là thể dạng không-tánh-không do tri thức “thông thường” cảm nhận được trong giai đoạn trước khi cảm nhận được tánh không đích thật) Vậy làm thế nào vị ấy có thể tránh khỏi không so sánh thể dạng tánh-không (tối hậu đạt được bằng thiền định) với thể dạng không-tánh-không xảy ra trước đó vẫn c̣n tiếp tục theo đuổi vị ấy? Dù sao nếu kinh nghiệm cảm nhận của vị ấy đủ sâu xa th́ vị ấy cũng có thể vượt lên trên cả sự thiền định của ḿnh để đạt được một thể dạng thật cao siêu mang lại một niềm tin tuyệt đối rằng tánh-không và không-tánh-không không phải là một sự [hiển hiện] luân phiên (chuyển tiếp từ thể dạng này sang thể dạng khác), bởi v́ cả hai thể dạng ấy chẳng những cùng kết chặt với nhau mà c̣n hoàn toàn giống hệt như nhau (cách biện luận của John Blofeld thật tinh tế, giúp chúng ta liên tưởng đến tính cách “Đa Dạng” và “Nhất Nguyên” hay “H́nh Tướng” và “Tánh Không” của hiện thực, tất cả những thứ này cũng chỉ biểu trưng cho hiện thực đơn thuần và bất khả phân, không phải là một sự hoán chuyển từ thể dạng này sang thể dạng khác).
|