View Single Post
Old 11-06-2019   #887
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,161 Times in 13,136 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

. Mối liên hệ với Kinh Lăng Nghiêm

Thuyết “sự vận động toàn thể” với quan niệm then chốt “thứ bậc nội tại” là một bước nhảy vọt của khoa học vật lư trong vũ trụ quan. Xưa nay người ta thấy thế giới hiện tượng là một thực thể khách quan, nằm ngoài con người và xem nó là đối tượng đích thực của ngành vật lư. Cả thuyết tương đối lẫn cơ học lượng tử, dù có xem người quan sát (và thiết bị quan sát) cần phải được thống nhất vào chung một thể với vật bị quan sát, nhưng nói chung nền vậy lư vẫn giả định có một thực thể ở “bên ngoài”. Thực tế là, quan niệm “vật ở ngoài nhau” là đặc trưng của ư thức hệ phương Tây, bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại.

Nay, khi thuyết của Bohm xem thế giới hiện tượng chỉ là thứ bậc dàn trải, là sự tŕnh hiện của một thứ bậc sâu xa hơn – thứ bậc nội tại – khi đó, Bohm đă làm một bước nhảy vọt về nhận thức. Đă đành hiện nay cũng có nhiều lư thuyết vật lư khác cũng xem thực tại như một thực thể có nhiều chiều (thí dụ lư thuyết dây) mà thực tại của chúng ta chỉ là dạng xuất hiện ba chiều của nó, nhưng thuyết của Bohm đi xa hơn hẳn, cho rằng thứ bậc nội tại bao gồm vật chất, lẫn ư thức, bao gồm cả toàn bộ sự sống của mọi sinh vật, kể cả loài người. Do đó thuyết của Bohm được mệnh danh là phép diễn giải thuộc về bản thể luận (ontology), trong lúc các lư thuyết kia là những phép diễn giải thuộc về nhận thức luận (epistemology).

Nhớ lại hai thuyết tương đối và lượng tử, ở đây ta thấy có một sự tương đồng thú vị về sự phát sinh của ba lư thuyết. Nếu thuyết tương đối được phát sinh bởi sự bất biến của vận tốc ánh sáng, thuyết lượng tử bởi tính phi liên tục trong sự vận động của các hạt hạ nguyên tử, th́ thuyết “vận động toàn thể” được phát sinh bằng tính chất liên thông của các hạt đó. Cả ba điểm xuất phát đều là những kết quả của thực nghiệm cả. Một điều tương đồng nữa là thuyết của Bohm dẫn đến những giả định về bản thể luận vô cùng xa lạ với nhà vật lư, cũng như những hệ quả của thuyết tương đối và cơ học lượng tử cũng rất khó hiểu, kể cả đối với những ai làm việc với hai lư thuyết này.

Mặc dù xuất phát từ kết quả thực nghiệm, nhưng lư thuyết của Bohm chưa được cộng đồng vật lư thừa nhận v́ những giả định thuộc về bản thể luận của ông chưa được chứng minh là tất yếu. Ngoài ra những giả định đó vượt khỏi phạm vi “thông thường” của ngành vật lư, v́ nó bao gồm cả vật chất lẫn tâm thức, cả lĩnh vực vô sinh và sự sống. Dù thế, thuyết của Bohm được nhiều nhà vật lư quan tâm v́ nó trả lời nhất quán được nghịch lư EPR về các hạt liên thông và nhất là nó mở ra nhiều khả năng khác của vật lư hiện đại.

Từ một hướng nh́n khác, thuyết “sự vận động toàn thể” của Bohm không thể không làm ta liên tưởng đến triết học Phật giáo. Quan niệm “tất cả trong một, một trong tất cả” chính là tư tưởng Hoa Nghiêm. Chủ trương “thực tại xuất hiện như một cảnh tượng khi bị quan sát” đă được Kinh Lăng Nghiêm nói đến. “Sự sống, ư thức lẫn vật chất đều lưu xuất từ một thể” chính là quan niệm Duy thức trong Phật giáo Đại thừa.

Tinh túy của triết học Phật giáo chính là vấn đề bản thể luận của thế giới và con người. V́ lư thuyết của Bohm cũng là một thế giới quan có tính bản thể luận nên nơi đây ta thử t́m hiểu, liệu triết lư Phật giáo có thể soi sáng ǵ hơn cho lư thuyết của Bohm hay không. Cũng chỉ trên mảnh đất bản thể học mà hai ngành khoa học và Phật giáo mới có chỗ tiếp cận với nhau.

Sau đây ta sẽ dẫn vài nét lớn của Kinh Lăng Nghiêm [8] về bản thể của thế giới hiện tượng. Sau đó ta sẽ vận dụng quan niệm Lăng Nghiêm [và nói chung của Phật giáo Đại thừa] để lư giải vài vấn đề bản thể học được vật lư hiện đại nêu lên.

3.1. Thế giới quan trong Kinh Lăng Nghiêm

Kinh Lăng Nghiêm nói về một thể uyên nguyên, được tạm mệnh danh là “Chân Tâm”. “Tính chất” của Chân Tâm là phi h́nh tướng, phi tính chất, không thể nghĩ bàn. Nhiều người cố nghĩ về Chân Tâm và tạm h́nh dung Chân Tâm như một “biển tinh lực uyên nguyên” hay “vầng trăng tṛn đầy” hay “không gian vô tận”. Dù h́nh dung thế nào đi nữa, Chân Tâm có hai “công năng” như sau: lặng lẽ chiếu soi và có khả năng tự chiếu soi ḿnh. “Chiếu soi” có thể được hiểu như “nhận thức” trong ngôn ngữ hiện đại. Từ “chiếu soi” làm ta cảm nhận là biển tinh lực đó gồm vô số cực quang hay quang minh (radiation) rực rỡ.

Xuất phát từ một Chân Tâm thuần túy “lặng lẽ chiếu soi” đó, bỗng một “vọng tâm” nổi lên, đó là lúc Chân Tâm quay qua tự nhận thức chính ḿnh và thấy có một thể bị nhận thức (tướng phần) và một thể nhận thức (kiến phần). Theo ngôn ngữ hiện đại th́ với vọng tâm, xuất hiện một lúc hai thể tính: người quan sát và vật bị quan sát.

“Vọng tâm” được Kinh Lăng Nghiêm sánh với cơn buồn ngủ. Khi ngủ mê th́ hiện ra giấc mộng, trong đó có người có ta, có cảnh vật, có diễn biến thông không gian và thời gian. Nếu tỉnh dậy th́ tất cả cảnh vật trong mơ cũng không c̣n. “Nếu vọng tâm sinh khởi th́ các pháp đều sinh khởi, vọng tâm diệt đi th́ các pháp đều diệt” [9] .

Đối với Phật giáo, thế giới hiện tượng là một sự tŕnh hiện, là một huyễn cảnh (maya) như “hoa hiện trong hư không”. Thế giới đó tŕnh hiện cho một quan sát viên nhất định, mỗi quan sát viên có một thế giới. Thế nhưng như ta đă nói ở trên, quan sát viên lẫn thế giới hiện tượng đều là phần tử của Chân Tâm (kiến phần và tướng phần) nên đều chính là Chân Tâm cả. Cả hai đều lưu xuất từ Chân Tâm, bị “vọng hóa” mà thấy có chủ thể (người quan sát) và khách thể (vật bị quan sát).

Thêm một bước vọng hóa, chủ thể quan sát lại làm thêm hai “lầm lạc” nữa, đó là:

a) cá thể đó sinh khởi thương ghét, yêu thích hay từ chối đối với vật được quan sát v́ tưởng rằng những sự vật tồn tại độc lập ở “bên ngoài” (chấp pháp)

b) người đó tưởng ḿnh là một chủ thể có thực, có một cái Tôi tồn tại riêng biệt ở “bên trong” (chấp ngă). Cũng như trong giấc mộng, người nằm mơ thấy ta, người và cảnh vật đều thực có.

Xuất phát từ hai thành kiến chấp pháp và chấp ngă, với mọi tâm trạng diễn biến liên tục và nhất là với tâm lư yêu ghét, người quan sát sinh ra vô số quá tŕnh vọng hóa với nhiều mức độ tâm lư với nhiều tính chất khác nhau, chồng chất bao phủ lên nhau. Đạo Phật chia các quá tŕnh tâm lư đó thành bốn giai đoạn, bốn mức độ khác nhau mà thuật ngữ gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Ngoài bốn quá tŕnh tâm lư đó, đạo Phật c̣n xem “sắc” là toàn bộ hiện tượng mà ta gọi là vật chất, kể cả thân vật chất của người quan sát. Do đó sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi chung là “ngũ uẩn”, là toàn bộ tiến tŕnh của vọng tâm được sinh ra và phát triển, khi Chân Tâm “dại dột” tự chiếu soi chính ḿnh và sa vào chấp ngă, chấp pháp. Ngũ uẩn bao phủ quanh cá thể với các dạng tâm lư và vật lư. Thế giới đang bao trùm xung quanh chúng ta chỉ là một thế giới đang hiện lên cho mỗi cá thể chúng ta, thế giới đó gồm vật chất (sắc), tức là các dạng vật chất quanh ta cùng với thân thể, cộng với các hoạt động tâm lư (thọ tưởng hành thức) đang được duy tŕ và phát triển liên tục.

Sự h́nh thành thế giới đó có thể được tưởng tượng như một vận động xoáy ṿng vô h́nh và thần tốc, c̣n cá thể đứng ở giữa mà nhận thức. Những vọng tâm “kiên cố” nhất bị “tạt” xa ra bên ngoài, biến thành thể vật chất. Khi biến thành vật chất các vọng tâm đó bị dàn trải để hiện thành không gian và thời gian. Chính sự vận động của các vọng tâm kiên cố nói trên làm người quan sát thấy có vật chất và vọng tưởng thấy có không gian và thời gian [10] .

Mỗi thế giới đó tuy là có giá trị cho mỗi cá thể nhưng chúng ḥa vào nhau, tưởng chừng như thể nhiều cá thể, toàn xă hội, toàn loài người…có chung một thế giới. Đó là v́ “cộng nghiệp” chung của nhiều cá thể làm cho những cá thể đó thấy chung một thế giới, như thể chỉ có một thế giới duy nhất. V́ sự vật chỉ là sự tŕnh hiện nên không thể nói “có” hay “không có” một cách tuyệt đối được. Khi nói “có” là “có” cho những cá thể nhất định, đối với một người là “có” nhưng đối với người khác là không cũng như người nằm mơ thấy “có sự vật” nhưng sự vật đó không có cho người tỉnh. Do đó khái niệm cộng nghiệp là hết sức quan trọng để giải thích thế giới hiện tượng “chung” của chúng ta.
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.04359 seconds with 9 queries