|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Việc vượt qua hai ảo tưởng trên không độc lập với nhau. So ra, việc vượt qua thuyết duy thực ngây thơ là đơn giản hơn. Russell đă khắc họa quá tŕnh này một cách đầy ấn tượng trong phần dẫn nhập của cuốn “An Inquiry into Meaning and Truth” của ông như sau:
“Chúng ta đều bắt đầu bằng ‘thuyết duy thực ngây thơ’, nghĩa là bắt đầu bằng học thuyết cho rằng, sự vật tồn tại như nó xuất hiện ra [trước giác quan của ta]. Chúng ta thừa nhận rằng, cỏ th́ xanh, tuyết th́ lạnh và đá th́ cứng. Nhưng vật lư học lại cam đoan với ta rằng, cái xanh của cỏ, cái lạnh của tuyết và cái cứng của đá không phải y hệt với cái xanh, cái lạnh và cái cứng mà chúng ta biết theo kinh nghiệm, mà là một cái ǵ đó khác hẳn. Nếu chúng ta tin vào vật lư học, chúng ta sẽ thấy rằng, khi một người quan sát cho rằng ḿnh đang quan sát một ḥn đá, th́ nghĩa là trên thực tế, anh ta đang quan sát những tác động của ḥn đá vào chính ḿnh. Có vẻ như khoa học đang tự mâu thuẫn với chính nó: khi nó tự cho ḿnh là khách quan cực độ, th́, trái với mong muốn của nó, nó lại ch́m ngập trong tính chủ quan. Thuyết duy thực ngây thơ dẫn đến vật lư học; và vật lư học, về phần ḿnh, lại chỉ ra rằng thuyết duy thực ngây thơ này, bao lâu nó cứ triệt để như thế, là sai lầm. Sai về logic; nghĩa là sai.”
Không kể đến lối hành văn bậc thầy, những ḍng chữ trên nói lên một điều ǵ mà trước đó tôi chưa hề nghĩ đến. Lối tư duy của Berkeley và Hume, nếu chỉ nh́n một cách hời hợt, có vẻ đối lập lại với lối tư duy của các khoa học tự nhiên. Nhưng nhận định trên của Russell đă phát hiện một mối liên hệ: Nếu Berkeley dựa trên nền tảng rằng chúng ta không trực tiếp nắm bắt các “sự vật” của thế giới bên ngoài thông qua giác quan, mà giác quan của chúng ta chỉ nhận biết được chúng thông qua các quá tŕnh nối kết nhân quả với sự hiện diện của các “sự vật” – một sự suy tưởng như thế hẳn đă có được sức mạnh thuyết phục từ ḷng tin vào lề lối tư duy vật lư học, th́ sẽ không cần thiết phải đưa bất kỳ cái ǵ vào giữa khách thể và hành vi nh́n để ngăn cách khách thể và chủ thể, và biến “sự tồn tại của khách thể” thành một tồn tại đáng nghi vấn.
Lối tư duy vật lư này cũng như các kết quả thực tiễn của nó đă làm lay chuyển niềm tin vào khả năng cho rằng, chỉ bằng con đường tư duy tư biện đơn thuần là có thể hiểu được các sự vật và các mối quan hệ của chúng. Dần dần, niềm tin rằng tất cả sự hiểu biết về sự vật của chúng ta rốt cuộc đều là một sự xử lư các chất liệu thô của các giác quan đă chiến thắng. Nguyên lư ấy, trong h́nh thức phổ quát này (được diễn đạt mù mờ một cách cố ư) hiện đang được chấp nhận rộng răi. Song niềm tin đó không hề dựa trên cơ sở, rằng đă có ai đó chứng minh được tính bất khả của việc thu hoạch các nhận thức hiện thực bằng con đường tư biện thuần túy, mà là: chỉ duy nhất con đường thực nghiệm nói trên đă chứng tỏ như là nguồn gốc của nhận thức. Galilei và Hume là những người đầu tiên đă đứng về phía nguyên lư này với tất cả sự sáng sủa và kiên quyết.
Hume đă nhận thấy rằng, các khái niệm được ta xem là cơ bản, ví dụ: “sự nối kết nhân quả”, không thể được rút ra từ chất liệu do giác quan cung cấp. Cách nh́n ấy đă khiến ông có thái độ hoài nghi với tất cả các loại nhận thức. Nếu đă đọc những tác phẩm của ông, người ta sẽ không khỏi kinh ngạc khi những triết gia sau ông – trong đó có không ít người được đánh giá cao – đă viết vô khối những thứ lộn xộn mà vẫn t́m được độc giả ngưỡng mộ. Ông đă giữ được ảnh hưởng sâu đậm đến những người xuất sắc sau ông. Người ta nhận ra ông khi đọc các bài phân tích triết học của Russell, mà sự sắc sảo và lối viết giản dị của chúng luôn làm tôi nghĩ tới Hume.
Khát khao của con người là đ̣i hỏi phải có nhận thức được đảm bảo chắc chắn. Bởi thế, thông điệp rơ ràng của Hume làm ta thất vọng ê chề: Chất liệu thô cảm tính – nguồn gốc duy nhất của nhận thức, nhờ thói quen, có thể đưa chúng ta tới niềm tin và sự mong đợi, nhưng không thể đưa chúng ta tới sự nhận biết hay thậm chí đến sự thấu hiểu về các quan hệ có tính quy luật. Đúng ở điểm này, Kant đă xuất hiện với một ư tưởng – dù ở dạng diễn giải của ông, nó khó mà đứng vững được, song vẫn là một bước tiến để giải quyết thế lưỡng nan của Hume: Tất cả những ǵ có nguồn gốc thường nghiệm ở nơi nhận thức đều không bao giờ chắc chắn cả (Hume). Nghĩa là (theo Kant – ND), nếu chúng ta sở hữu nhận thức chắc chắn, th́ nhận thức ấy phải được đặt cơ sở ở trong bản thân lư tính. Chẳng hạn, điều này được khẳng định khi bàn về các định lư của h́nh học và về nguyên lư nhân quả. Nhận thức này, và các nhận thức vững chắc khác có thể nói là một bộ phận trong bộ công cụ của tư duy; do đó, chúng không cần phải nhờ đến các dữ liệu do giác quan cung cấp mới có thể có được (tức gọi là nhận thức “a priori” – tiên nghiệm). Ngày nay mỗi chúng ta đều biết rằng, những nhận thức ấy tuyệt không có ǵ là chắc chắn, vâng, chúng tuyệt không sở hữu một sự tất yếu nào bên trong như Kant từng tin tưởng. Nhưng với tôi, nếu nh́n vấn đề từ quan điểm logic, lập trường của ông lại có vẻ đúng: đó là sự xác nhận, rằng chúng ta có lư do “chính đáng” khi sử dụng các khái niệm ấy để tư duy, những khái niệm mà chúng ta không thể có được từ chất liệu của các kinh nghiệm do giác quan mang lại.
Theo tôi, người ta thậm chí phải khẳng định mạnh mẽ hơn nữa: Những khái niệm xuất hiện trong tư duy và trong các biểu đạt bằng ngôn ngữ của chúng ta, tất cả – từ điểm nh́n logic – là những sáng tạo tự do của tư duy và không thể có được một cách quy nạp từ các kinh nghiệm giác quan. Sở dĩ điều này là khó nhận ra, chỉ v́ chúng ta thường có thói quen gắn chặt một số khái niệm và liên kết khái niệm (mệnh đề) nhất định với một số kinh nghiệm giác quan nào đó của chúng ta, đến nỗi chúng ta không ư thức được khe nứt ngăn cách – về mặt logic là không thể vượt qua – giữa thế giới của các kinh nghiệm giác quan với thế giới của các khái niệm và mệnh đề.
|