Những Người Ngủ Muộn - Trang Châu
Hình minh họa
Hội thành hình nhưng không đăng ký. Chủ tịch là Jean Paul. Không ai bầu Jean Paul vào chức vụ đó cả nhưng cũng không ai phản đối khi hắn điều hành công việc y như một ông chủ tịch. Nếu không gặp mặt mà chỉ nghe tên người ta đều tưởng Jean Paul là một anh Tây nhưng hắn là gốc Việt chính hiệu. Cái tên Jean Paul được gắn cho Phúc, tên thật của hắn, là vì thời còn ở Sàigòn trước 75, những chiều cuối tuần hắn hay lững thững đi trên đường Catinat túi sau của chiếc quần jeans bạc thếch lúc nào cũng cồm cộm cuốn sách loại bỏ túi “Cơn buồn nôn” của Jean Paul Sartre. Dạo ấy chưa quá hai mươi tuổi đầu mà mở miệng ra là hắn như nôn mửa vào cái xã hội đương thời với cuộc chiến tranh ngày một hung hãn, mở miệng ra là hắn triết lý về đủ thứ đề tài. Bạn bè nửa đùa nửa mỉa gọi hắn là Jean Paul, gọi riết rồi quên mất cái tên Phúc của hắn. Jean Paul học trường Jean Jacques Rousseau, gọi tắt là J.J.R.. Năm cuối hắn học ban Triết. Bài triết nào của hắn cũng được thầy dạy triết mang ra đọc và phê bình. Có lần bài của hắn gây ra tranh cãi sôi nổi trong lớp, tranh cãi có khi giữa hắn và thầy, có khi giữa hắn và đám con gái. Khi nói đến Sartre thầy chịu câu “địa ngục là kẻ khác”(1) nó cãi lại “chúng ta cõng tật xấu của chính chúng ta trên lưng mình”(2). Rồi khi thầy hỏi cả lớp giữa trai gái có tình bạn thật sự không, đám con gái nhao nhao bảo có, hắn bảo không, hắn xác quyết tình bạn giữa trai gái chỉ là thứ tình yêu trá hình chưa ló dạng mà thôi. Lần nầy chính thầy đồng ý với hắn khiến đám con gái đỏ mặt phản đối luôn cả thầy. Học ban triết, giỏi triết thế mà hắn rớt tú tài II cả hai kỳ. Chỉ vì hắn chê không thèm học Toán và Vật Lý. Học lại hắn biết lo hơn nên đậu ngay kỳ đầu. Cái mộng được du học Pháp ở Sorbonne của hắn không thành vì gia đình hắn không hiểu sao dở chứng không muốn cho hắn đi du học nữa.
Bất mãn, hắn muốn sống tự lập nên thi vào đại học sư phạm 3 năm. Ra trường hắn được bổ đi dạy môn Pháp văn cho một trường trung học ở Cần Thơ. Hai năm sau hắn bê cô học trò lớp đệ nhất của hắn về làm vợ. Lấy vợ được hơn năm hắn sắp tính có con thì miền Nam mất. Chạy ra hải ngoại, tự do hắn giữ được nhưng địa vị xã hội thì tuột dốc. Từ một ông giáo sư Pháp văn được học sinh và gia đình học sinh kính nể hắn rớt xuống làm công nhân viên của một hãng làm bố thắng. Trong hai năm hắn thay đổi sở làm ba lần. Cái tật tỏ ra hay chữ, hay triết lý khiến hắn đi làm đâu cũng bị đì. Vợ hắn khá hơn xin được một chân thâu ngân viên trong ngân hàng. Đời sống tưởng sẽ yên ổn, đùng một hôm vợ hắn bỏ nhà ra đi. Truy ra mới biết thằng giám đốc chi nhánh ngân hàng mê vợ hắn bỏ vợ nó mà bê vợ hắn. Mất vợ hắn đau lắm nhưng ở cái thế tuột dốc như hắn bây giờ thì làm được gì. Hắn chỉ còn nước triết lý vớt vát để tự an ủi. “Trước kia mình lấy học trò mình làm vợ mà chẳng sao, nay thằng giám đốc chi nhánh ngân hàng có lấy nhân viên của nó làm vợ thì cũng chẳng sao.” Nhưng cùng lúc hắn nhận thức ra được một điều: Ở xứ người, thành phần tị nạn đến từ một xứ nghèo như hắn muốn vươn lên trong xã hội đầy cạnh tranh nầy phải có bằng cấp Đại học. Nghĩ mình dù gì cũng là dân trường Tây, một thằng J.J.R., ở một xứ nói tiếng Tây mà không ngóc đầu lên nổi là kém. Hắn còn cảm thấy nhói đau khi nghĩ con vợ hắn bỏ hắn có thể một phần vì hắn xuống cấp trong xã hội nầy. Jean Paul mất mấy đêm suy nghĩ xem đi học lại nên học ngành gì. Mọt sách như hắn chỉ có ngành quản thủ thư viện là thích hợp nhất. Học ngành này xong, kiếm được việc rồi, hắn sẽ không những có đủ tiền để sống, địa vị xã hội được nâng cao mà còn có vô số thì giờ để đọc sách nữa. Jean Paul như vừa tìm được một sinh khí mới, hắn hăng hái ghi tên đi học lớp đêm. Hắn được xếp học lại năm cuối trung học. Hắn mài đũng quần một năm ở trung học và ba năm ở Đại Học. Ra trường hắn xin được một chân quản thủ thư viện ở một thành phố cách Montréal chừng nửa giờ xe hơi. Đời sống vật chất coi như được bảo đảm hắn bắt đầu nghĩ đến chuyện làm lại cuộc đời. Nhưng hắn lại tự thề nếu không gặp được một người đàn bà đủ trình độ để hiểu hắn, hiểu không có nghĩa chịu đựng mà để khâm phục hắn thì thà rằng hắn ở vậy suốt đời. Không vợ không con, rãnh rỗi hắn hay tối tối ra quán Van Houtte uống cà phê đọc báo, đọc sách. Ngày thường hắn ngồi cho đến 11 giờ đêm, cuối tuần hắn ngồi đến 12 giờ, 1 giờ sáng mới về ngủ.
|