Trưa ngày 30 tháng 4 khi tiếng súng chấm dứt, anh em tôi đứng trên lầu nhà chú ruột tôi trên đường Chi Lăng buồn bã nhìn những người lính Việt Nam Cộng Hòa cởi bỏ áo lính, mặc áo thun trắng cúi đầu lặng lẽ đi dọc hai bên đường. Tôi còn thấy nhiều người hàng xóm âm thầm leo lên mái nhà mình giấu đồ có liên hệ tới chê độ cũ.
Đài phát thanh Sàigòn ì à vang lên giọng ca nhạt nhẽo của Trịnh công Sơn với bài “Nối Vòng Tay Lớn” thật mỉa mai.
Chiều hôm đó, đoàn quân mường mán, ngơ ngơ ngáo ngáo đi ngay chính giữa con đường Chi Lăng để vào bùng binh Sàigòn. Nhìn chúng nhe răng cười toe toét, bố tôi thở dài than với anh em chúng tôi:
-Cậu tránh chúng tất cả ba lần. Cuối cùng cũng không thoát khỏi cái giống khốn nạn này. Lần đầu bỏ làng trốn vào Hưng Yên được năm năm. Rồi bỏ Hưng Yên trốn vào Nam được hai mươi mươi năm. Tính bỏ Việt Nam đi Mỹ nhưng lại không thành.
Chỉ ngày hôm sau thôi, tôi thấy được những đổi ngược hoàn toàn không những trong luân lý cổ truyền của dân tộc mà cả trong ngôn ngữ hằng ngày nữa.
Cũng trên con đường Chi Lăng, tuần sau tôi được chứng kiến hai cô gái bị chúng bắt tròng cái bảng to ghi ba chữ “tôi làm điếm” trước ngực rồi cho đám con nít kéo dây buộc cổ lôi đi. Cuối đám đông, một tên cầm cái bảng ghi chiến tích chúng tóm được: “Mỹ Ngụy để lại hơn một trăm ngàn điếm”.
Ông anh cả tôi nói nhỏ với tôi: “Phải tìm đường vượt viên chứ ở với cái lũ vô học này thì thà chết còn hơn”. Vô học cộng thêm vô thần thành thứ vô liêm sỉ và vô lương tâm.
Để xoá bỏ những thành tích của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, các cán ngố bầy trò đốt sách văn hoá đồi trụy. Bao nhiêu sách vở văn chương lẫn khoa học đều được tịch thu, chất thành đống giữa đường rồi cho các em thiếu nhi quàng khăn đỏ châm lửa đốt. Tôi còn nhớ trước khi đốt, tên cán bộ ốm tong, đen thui như khúc củi, nhe hàm răng vẩu cầm cuốn tạp chí có hình hai người hôn nhau đưa cao lên hét: “Đốt hết thứ văn hóa đồi trụy này. Xem nè. Mỹ Ngụy nó đang…bú mồm”.
Dân Sàigòn phải nhức đầu khi bệnh viện Từ Dũ chuyên khoa về sinh sản bị đổi tên thành “Xưởng đẻ”. Đồng hồ tự động, được các đồng chí phán thành đồng hồ không người lái, hai cửa sổ. Nhà vệ sinh nam, nữ bắt viết lại thành “ỉa nam, ỉa nữ”. Bộ đội mở miệng ra là “hồ hởi, phấn khởi” những “cụm từ kách mệnh” nghe thật “bức xúc” vì nó “hiển thị” một “sự cố” mà không thể “triển khai” mọi “phẩm chất” hầu “kích cầu” hay “tiếp thu” được. Dân miền Nam cứ phải nghe những danh, động, tĩnh và trạng từ quái lạ mà không có cả trong văn chương bình dân lẫn ngôn ngữ dân gian. Để rồi cuối cùng, hiểu hay không hiểu, thì Sàigòn cũng phải mang tên con cáo (hồ) đuôi to (vĩ đại), xác bị ướp lạnh.
Những câu hò tình tự, những bài thơ yêu đương, những văn phẩm trữ tình nay trở thành văn chương hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa: “Vừa thấy Đỉnh bước vào sân nhà mình, cái Đẹp quẳng cái gánh hai thùng phân to xuống, đáp ngay: Em muốn anh quản lý đời em. Thế anh có chịu tiếp thu em không?”. Chuyện tình mà đọc cứ nghĩ như chuyện buôn bán phân bón. Bốn mươi năm nay dù uống thuốc xổ liên tục, tôi cũng vẫn không tiêu được cái văn phong “cách mạng lãng mạn” này được.
Nói theo đúng ngôn từ của các cán ngố là “giải phóng” làm dân Sài thành “phỏng cả giá..”.
|