Thread: Sưu tầm
View Single Post
Old 12-18-2019   #442
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Walt Whitman (1819-1892)

Thi hào Walt Whitman sinh tại Long Island, New York, ngày 31 tháng 5 năm 1819 và mất ngày 26 tháng 3 năm 1892. Ông là nhà thơ, nhà văn, và kư giả. Ông bỏ học từ năm 11 tuổi để đi làm kiếm tiền phụ giúp gia đ́nh. Ông làm nhiều việc từ phụ tá văn pḥng luật sư thành phố, nhà giáo, nhà in, tới nhà xuất bản sách. Ông là người chuyển tiếp giữa chủ nghĩa Siêu Việt và chủ nghĩa hiện thực, đă phối hợp cả hai quan điểm ấy trong các tác phẩm của ông. Whitman nằm trong số những thi sĩ có sức ảnh hưởng rất lớn trong nền văn học Mỹ. Ông thường được gọi là cha đẻ của thể thơ tự do. Sáng tác của ông gây nhiều tranh luận trong thời đại đó, đặc biệt tuyển tập thơ “Leaves of Grass” [Lá Cỏ] của ông, mô tả công khai chuyện t́nh dục.

Tác phẩm chính yếu của Whitman là cuốn “Leaves of Grass,” được chính ông bỏ tiền túi ra xuất bản vào năm 1855. Tác phẩm này là nỗ lực mang đến cho những con người b́nh thường anh hùng ca của Mỹ. Ông tiếp tục bổ sung và sửa đổi tác phẩm này cho đến khi qua đời vào năm 1892.

Lối sống lêu lổng của Whitman đă được khuôn rập bởi phong trào Beat và những người lănh đạo phong trào này như Allen Ginsberg và Jack Kerouac vào thập niên 1950s và 1960s cũng như các nhà thơ phản chiến Adrienne Rich và Gary Snyder.

Thơ của Whitman đă được phổ nhạc bởi rất nhiều nhạc sĩ; thực tế cho thấy thơ của ông đă được phổ nhạc nhiều hơn bất cứ nhà thơ Mỹ nào khác trừ Emily Dickinson và Henry Wadsworth Longfellow.(10)

Theo học giả Shamsher Singh tại Đại Học Sunrise University, Alwar, Ấn Độ, trong bài viết “Walt Whitman: His Concept of Religion” [Quan Điểm Về Tôn Giáo Của Walt Whitman],(11) th́ có rất nhiều tương đồng về tư tưởng Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (Jainism) trong thơ của Whitman. Chẳng hạn, trong bài thơ “Song of Myself,” [Bài Ca Chính Ḿnh] Whitman tự cho là nhà thơ của thân và tâm: “I am, the poet of the Body and I am the poet of the soul” [Tôi là, nhà thơ của thân và tôi là nhà thơ của tâm].

Theo Singh, trong câu đầu này của bài thơ “Song of Myself,” Whitman đánh giá thân và tâm b́nh đẳng. ‘Thân’ là Thần Nhân theo quan điểm Kỳ Na Giáo và ‘Tâm’ là ‘Tâm Linh’ theo Phật Giáo. Theo Kỳ Na Giáo, bậc hiền nhân thực hành theo chánh đạo cuối cùng được giải thoát khỏi ṿng sinh tử. Trong cuộc đi t́m tâm linh, Whitman đă đạt tới mục đích cao nhất của sự tự giác – là trạng thái gần với Niết Bàn [Nirvana] trong Phật Giáo, Tịnh Thức [Turiya] trong Áo Nghĩa Thư, và Toàn Trí [Kevala] hay Giải Thoát [Moksa] trong Kỳ Na Giáo.

Đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Passage to India” [Hành Tŕnh Tới Ấn Độ] của Whitman nói về sự vô thường biến dịch của thời gian, không gian và cái chết như ḍng nước chảy về miền vô tận.

“O soul, thou pleasest me—I thee;
Sailing these seas, or on the hills, or waking in the night,
Thoughts, silent thoughts, of Time, and Space, and Death, like waters flowing,
Bear me, indeed, as through the regions infinite,
Whose air I breathe, whose ripples hear—lave me all over;
Bathe me, O God, in thee—mounting to thee,
I and my soul to range in range of thee.”(12)

Ôi tâm hồn, ngươi làm vui ḷng ta – Ta ngươi;
Chèo thuyền qua những đại dương này, hay lên những ngọn đồi, hay thức giấc trong đêm,
Suy nghĩ, trầm tư, về Thời Gian, và Không Gian, và Cái Chết, như nước chảy,
Hăy mang theo ta, phải đó, qua miền vô tận,
Không khí ta hít thở, những tiếng sóng ŕ rào ta nghe – thấm nhuận ta cùng khắp;
Hăy tắm ta đi, ôi Thượng Đế, trong ngươi – gắn liền với ngươi,
Ta và tâm hồn ta nằm trong lănh địa của ngươi.

Thế Hệ Beat (Beat Generation)

Vào thập niên 1950s tại Mỹ không phải là thời gian có sự da dạng về tôn giáo. Phong trào tiếp thu tâm linh mà chúng ta biết ngày nay, lúc đó chưa được thiết lập và kỷ nguyên Hậu Chiến được xác định bởi việc tuân thủ các giá trị gia đ́nh và truyền thống, gồm sự thuần thành tôn giáo của các niềm tin Công Giáo-Tin Lành truyền thống.

Các nhà văn trong phong trào Beat nằm trong thiểu số những người t́m kiếm tâm linh tại Mỹ lúc đó là những người theo đuổi các h́nh thức tâm linh thay thế để bổ sung cho khát khao tồn tại mà họ đă gặp phải trong đời sống của chính ḿnh.

Thế Hệ Beat chưa bao giờ là phong trào lớn trong phạm vi số lượng, nhưng trong ảnh hưởng và t́nh trạng văn hóa th́ họ nổi bật hơn bất cứ phong trào nào khác.

Những năm ngay sau Thế Chiến Thứ Hai chứng kiến sự đánh giá lại toàn bộ các cấu trúc thông thường của xă hội. Cùng với sự bùng nổ kinh tế thời hậu chiến, sinh viên tại các đại học đă bắt đầu nêu nghi vấn về chủ nghĩa vật chất lan tràn trong xă hội. Thế Hệ Beat là sản phẩm của sự tra vấn này. Họ chứng kiến chủ nghĩa tư bản quay lưng lại với sự phá hoại tâm linh con người và chống lại b́nh đẳng xă hội. Cộng thêm với sự bất măn về văn hóa tiêu dùng, những nhà văn học Beat c̣n phàn nàn về kiểu cách đoan trang đến ngột ngạt của thế hệ cha mẹ. Những điều cấm kỵ không cho nói về t́nh dục được xem là không lành mạnh và có thể gây tổn hại tới tâm lư.

Trong thế giới văn học và nghệ thuật, những nhà văn Beat đứng đối nghịch với h́nh thức sạch, gần như sát trùng của những người theo chủ nghĩa hiện đại của thế kỷ 20. Họ [Beat] xây dựng kiểu cách văn học táo bạo, đơn giản và biểu cảm hơn bất cứ điều ǵ có trước đó. Các thể loại âm nhạc ngầm như jazz đặc biệt gợi hứng cho các nhà văn Beat. Phong trào hippie của thập niên 1960s cũng nợ các nhà văn học Beat rất nhiều.

Phật Giáo, dù cách xa ḍng chính của Mỹ, đă cung ứng cho mỗi nhà văn một phương pháp để nối kết lại với cảm giác bị mất dưỡng tố tâm linh mà các truyền thống và văn hóa của họ đă không thể cung cấp. Mỗi nhà văn theo đuổi con đường riêng của ḿnh trong triết lư Phật Giáo, và đến nơi khác nhau như là kết quả của sự khám phá của mỗi người.

Các nhà văn Beat đóng góp cho sự phát triển của nền Phật Giáo Mỹ qua các phương pháp thích đáng và nghiên cứu h́nh thành trong tác phẩm văn và thơ phản ảnh các phương pháp mà trong đó các nhà văn dung hợp triết lư Phật Giáo trong cuộc sống cá nhân như là sự thực hành tâm linh và như là yếu tố phong cách dùng để nâng cao và truyền đạt việc sáng tác của họ.

Dù các nhà văn học Beat được gọi chung là một thực thể duy nhất bởi báo chí văn học buổi ban đầu, họ không được đặc trưng bởi tính đặc thù của tư tưởng; thay v́ vậy họ đă phác thảo “tinh thần chiết trung” là bằng chứng trong các tác phẩm của họ. Sự giáo dục tôn giáo của Jack Kerouac trong Đạo Công Giáo và di sản Do Thái của Allen Ginsberg là các tiêu chuẩn trong cuộc sống của 2 tác giả mà sẽ biểu lộ trong tác phẩm của họ bên cạnh các h́nh thái tâm linh Đông Phương. Điều này dẫn tới sự kề cạnh của h́nh ảnh tôn giáo trong tác phẩm của họ và, cuối cùng, tới sự sáng tạo của một sự tổng hợp mới được nói đến như là “Đặc Tính Tâm Linh của Beat.” Đặc Tính Tâm Linh của Beat này được tạo ra bởi các truyền thống Phật Giáo và Ấn Độ Giáo v́ nó sẽ là nguồn cội tôn giáo của các nhà văn đă đóng góp cho nó. Đối với các nhà văn học Beat, Phật Giáo sẽ trở thành một giải pháp cho việc hóa giải sự hỗn loạn của cuộc sống trong đời sống riêng tư của họ và sự hoài nghi của họ về nền văn hóa thống trị.

Thập niên 1950s là thời gian khi mà Thiền Phật Giáo được xem như đă xây dựng gốc rễ trong nền văn hóa Mỹ. Thiền Sư người Nhật D.T. Suzuki được sư phụ là Thiền Sư Soyen Shaku gửi sang Bắc Mỹ vào năm 1896. Sau khi sống tại New York một thời gian, ông được mời dạy tại Đại Học Columbia và có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều người gồm các nhà nghệ sĩ, trí thức, và tâm lư. Rick Fields là một học giả về lịch sử tôn giáo Mỹ cho rằng Thiền Sư Suzuki và tác phẩm của ông đă đại chúng hóa Thiền, do đó làm cho nhiều người trong văn hóa Tây Phương biết đến rộng răi. Đây là lần đầu tiên Phật Giáo được giảng dạy và thực hành trong bối cảnh ra xa khỏi tu viện. “Sự Bùng Nổ Thiền,” như được nhiều học giả về lịch sử tôn giáo tại Mỹ nói đến, đă xảy ra trong thập niên này.

Sự thích thú gia tăng vào Thiền phù hợp và trong cách nào đó trực tiếp nuôi dưỡng sự hứng thú của các nhà văn học Beat đối với Phật Giáo.

Những người sáng lập của Thế Hệ Beat đă gặp nhau vào đầu thập niên 1940s tại Đại Học Columbia, New York. Giữa thập niên 1950s, những khuôn mặt gạo cội của Beat đă gặp nhau tại San Francisco nơi mà họ cũng gặp và làm quen những người bạn của các khuôn mặt có liên quan với phong trào Phục Hưng San Francisco (San Francisco Renaissance).

Vào thập niên 1960s, một số nhân vật của phong trào Beat mở rộng đă hoạt động trong các phong trào hippie và chống văn hóa lớn hơn. Tác phẩm của Ginsberg cũng trở thành yếu tố quan trọng của phong trào văn hóa hippie đầu thập niên 1960s.

Allen Ginsberg và Jack Kerouac là hai nhân vật cốt cán ban đầu của Beat, và họ đă ảnh hưởng đến những người đi sau trong thế hệ Beat nhiều năm sau này. Lucien Carr, John Clellon Holmes, và Neal Cassidy cũng là những thành viên đầu tiên của phong trào này, dù ảnh hưởng của họ ít hơn những người khác.
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10289 seconds with 10 queries