Áp lực xă hội
 Tại nhiều nước, cô đơn có thể không có vẻ ǵ quá ngạc nhiên. Chẳng hạn, trong tháng 12, nữ tài tử người Mỹ Christina Hendrecks đăng h́nh cô đơn của cô tại một buổi ḥa nhạc. Nữ tài tử người Anh Emma Watson gần đây đă tuyên bố yêu thích cuộc sống đơn độc và “làm bạn chính ḿnh.” Nhiều tác phẩm Tây Phương đă viết các hướng dẫn để uống rượu một ḿnh và đọc sách tại quán bar, và di du lịch một ḿnh đă tạo nên sự nghiệp cho vô số người có ảnh hưởng trên truyền thông xă hội.
 Nhưng tại một đất nước nơi tuân thủ các tiêu chuẩn, quy luật và sinh hoạt theo đoàn nhóm thường xuyên được đánh giá cao, đó là vấn đề lớn. 125 triệu người dân Nhật Bản chen chúc trong một quần đảo nhỏ hơn tiểu bang California – và 4/5 lănh thổ của Nhật là rừng núi và không thể sinh sống được. Đất đai sinh sống từ lâu ở mức đắt giá, v́ vậy phải đặt nặng vào cuộc sống tập thể và thích ứng với những người khác.
“Nhật Bản là quốc gia nhỏ, và mọi người cần cộng sinh,” theo Motoko Matsushita, cố vấn cao cấp tại công ty nghiên cứu kinh tế lớn nhất của Nhật bản, cho biết. Viện Nomura Research Institute có trụ sở tại Tokyo. Bà nghiên cứu về ohitorisama, nguồn gốc và tương lai của nó. “Chúng ta cần tập trung vào việc sống bên nhau trong hài ḥa, đó là lư do tại sao áp lực rơ ràng để làm việc trong nhóm là cao.”
Matsushita nói rằng cùng với sự trỗi dậy của truyền thông xă hội – cách về số lượng bạn bè hay ‘thích’ có thể cho thấy giá trị của bạn – điều này dẫn tới áp lực rơ ràng ngột ngạt bị kỳ thị là cô đơn. Bà cho biết sự thụt lùi từ điều này và văn hóa thông tin 24/7 thúc đẩy sự trỗi dậy của nền văn hóa cô đơn.
 Trong trường hợp benjo meshi (ăn trưa trong nhà vệ sinh), nhà xă hội học đă đặt ra từ ngữ này vào năm 2008, Daisuke Tsuji của Đại Học Osaka, cho thấy rằng các học sinh đă ăn trong nhà vệ sinh không phải v́ họ không thích ăn một ḿnh, mà v́ họ không muốn các bạn bè trang lứa nghĩ họ không có ai để cùng ăn chung.
 Nhưng Matsushita tin rằng điều này đang thay đổi, cho rằng áp lực xă hội tiêu cực đối với cuộc sống cô đơn đă giảm. “‘Bạn phải lập gia đ́nh, bạn phải có con’ – những áp lực xă hội này đang giảm dần,” theo bà cho biết. Bà trích thuật một cuộc thăm ḍ với 10,000 người mà bà đă thực hiện cho thấy thái độ gia tăng hướng tới sự độc lập và “sự linh hoạt gia đ́nh” từ năm 2015 tới 2018. Thí dụ, ngày càng có ít người cảm thấy họ nên lập gia đ́nh và có con cái, trong khi ngày càng có nhiều người cảm thấy chấp nhận việc ly dị dù bạn đă có con. Trong số những cặp hôn nhân, ngày càng có nhiều người cảm thấy ổn về việc giữ bí mật với người phối ngẫu của họ.
Một ḿnh đi xem phim. (nguồn: 
https://pixabay.com/ )
Một ‘Xă hội cực kỳ cô đơn’
Một phần của phương tŕnh này là xă hội Nhật Bản đang trải qua sự thay đổi nhân khẩu học có tính chất địa chấn. Sinh suất đang giảm: năm ngoái chỉ có 864,000 em bé được sinh ra – là thấp nhất kể từ lúc bắt đầu ghi nhận vào năm 1899. Số gia đ́nh chỉ có một người đang gia tăng, từ 25% vào năm 1995 tới hơn 35% vào năm 2015, theo tài liệu thống kê dân số cho thấy. Sự sút giảm tỉ lệ hôn nhân đang góp phần vào việc gia tăng số người sống một ḿnh nhưng điều đó cũng là sự kiện ngày càng có nhiều người cao niên trong quốc gia biến thành màu xám nhanh nhất thế giới đang trở thành những người góa chồng hay góa vợ. Kết quả là, giữa dân số mới này, cách những người tiêu thụ hành xử và cách các cơ sở kinh doanh phục vụ cho họ đang thay đổi.
“Sức mạnh mua sắm của người độc thân có thể không c̣n bị bỏ quên,” theo Kazuhisa Arakawa cho biết. Ông là nhà nghiên cứu tại Hakuhodo, một trong những công ty quảng cáo lớn nhất tại Nhật Bản. Ông ấy viết nhiều sách về kinh tế của điều mà ông gọi là “xă hội cực kỳ cô đơn” của Nhật và phỏng đoán rằng 50% dân số có độ tuổi 15 hay lớn hơn sẽ sống trong các gia đ́nh một người vào năm 2040. “Tôi tin rằng thị trường sẽ không gia tăng nếu không nắm bắt những khách hàng cô đơn này,” ông đă viết như thế.
Erika Miura, cư dân Tokyo 22 tuổi làm việc trong ngành IT, là một người kỳ cựu của phonng trào ohitorisama. Ngồi trong quán Bar Hitori, cô nói rằng cô là người hiếm trong số nhóm bạn của ḿnh muốn tự ḿnh làm những việc như thế. “Nhiều người bị loại ra v́ ư tưởng này, nhưng tôi trượt băng một ḿnh,” theo cô cho biết. Cô cũng đi xem phim và hát karaoke một ḿnh, bởi v́ nó cho cô nhiều tự do hơn, và rằng có nhiều dịch vụ cho người cô đơn tại Tokyo. Trong khi đó Go Yamaguchi, khách hàng tại 1Kara, nói rằng khi ông đi hát karaoke với bạn bè th́ ông phải đợi đến lượt ḿnh. “Tôi bị lúng túng nếu tôi không thể hát hay,” ông nói thêm. “Tôi có thể hát bất cứ thứ ǵ tôi muốn khi tôi đi hát một ḿnh.”
Cô đơn cũng cung cấp nhiều cơ hội cho những người là thành phần của gia đ́nh “truyền thống,” theo các chuyên gia cho biết. Nghiên cứu vào năm 2018 của Arakawa cho thấy rằng có tới 1/3 người đă lập gia đ́nh hoạt động một ḿnh như đi dự một ḿnh trong các sự kiện. Matsushita, đă lập gia đ́nh và có con cái, đồng ư điều này và nói rằng, “Đôi khi tôi thích thú việc hát karaoke tại quán bar một ḿnh.”
Khi nói đến nhiều người độc thân lúc về già, Matsushita cho biết rằng nhóm này – đặc biệt các bà cụ -- có “tâm lư phản kháng” khi bị nh́n thấy họ cô đơn. Nhưng bà tin rằng khi họ thấy thế hệ trẻ hơn tiếp tục đẩy lùi biên giới th́ mọi thứ có thể thay đổi, đặc biệt khi các nhà tiếp thị của những dịch vụ độc thân biết rằng những người về hưu là một dân số có thời gian và tiền bạc.