-
Vương Mộng Long
December 31st, 2019
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 9)
Kỳ trước: Lương thực và đạn dược cạn kiệt, nhưng những người lính vẫn tiếp tục chiến đấu, không phải v́ muốn thăng quan tiến chức, không phải v́ vinh quang, mà chỉ v́ những chiến sĩ c̣n lại muốn sống chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy tṛ. Người lính bị thương mù cả đôi mắt cũng đă khóc với Thái Sơn v́ không c̣n thấy đường để bắn.
Màn đọ sức sau cùng…
Trong lúc tôi đang lo thiếu cơm gạo, thiếu thuốc men th́ tin tức A 2 lại cho biết một đơn vị phiên hiệu là Trung Đoàn E 26 (?) của Việt-Cộng đă được điều động vào vùng.
Tôi nhớ nằm ḷng tên các đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên của Cộng-Sản hiện diện trong lănh thổ Cao Nguyên Vùng 2, kể cả sở trường, sở đoản của chúng.
Thời gian này ở Tây Nguyên, Mặt Trận B3 vừa nâng cấp cho Trung Đoàn 470 Vận Tải thành Sư Đoàn 470 Vận Tải, đồng thời thành lập thêm hai trung đoàn mới mang tên E 20 và E 26. Thực tế, cho tới ngày hết chiến tranh, hai trung đoàn mang tên E 20 và E 26 vẫn chưa thành h́nh.
Theo tôi th́ đơn vị địch được đưa vào trận phải là Trung Đoàn E 25 trực thuộc Mặt Trận B3.
Trung Đoàn E 25 của Mặt Trận B3 này được thành lập cuối năm 1972 với cán bộ khung là Đoàn 25 Xâm Nhập.
Địa bàn hoạt động của E 25 là vùng Nam Pleime trong khu vực Tiều Teo lănh thổ của quận lỵ Buôn Hô tỉnh Dắk Lắk Việt-Nam Cộng-Ḥa. Chính trung đoàn Cộng-Sản này đă đánh chiếm Căn cứ An Tân (Tiêu Atar) và đồn Địa Phương Quân Ea Súp thời gian trước đây.
Các Trung Đoàn E 64 và E 48 của Sư Đoàn 320A Cộng-Sản đă bị tổn thất quá nặng sau nhiều ngày quần thảo với “Thằng Hai Nâu” (Việt Cộng gọi Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân là
Thằng Hai Nâu)
Lúc này, cả Thằng Hai Nâu và những trung đoàn trực thuộc Sư Đoàn 320A đều ở vào t́nh trạng của các vơ sĩ đă ngất ngư, chỉ muốn nằm xuống sàn đài mà nghỉ, mà thở.
Nhưng ai cũng biết, trên vơ đài th́ kẻ đứng vững sau cùng mới là người chiến thắng.
V́ thế mà, Sư Đoàn 320A Cộng-Sản phải cầu viện tới E 25 của Mặt Trận B3.
Ngày xảy ra cuộc chạm trán lần đầu với E 25, tôi xin được hai phi tuần yểm trợ tiếp cận.
Trước khi A 37 vào vùng, tôi sử dụng tối đa hỏa lực cối 60 và 81 ly bao trùm triền đồi hướng Tây. Kế đó, tôi tập trung toàn bộ vũ khí bắn thẳng tưới đạn theo hai hướng Tây Bắc và Tây Nam đan nhau như rẻ quạt trong một thời gian suốt hai giờ đồng hồ.
Tới trưa hôm đó mới thấy bóng dáng chiếc thám thính cơ O2 trên vùng trời Đông Bắc.
Tôi nghe trong máy không lục,
–
Thái Sơn đây Bắc Đẩu! Cho mục tiêu đi!
– Hướng bốn ngàn tám trăm ly giác! Đánh theo chiều Bắc Nam cách hàng rào hai trăm mét!
– Okay!
Chiếc trinh sát cơ chúc xuống, “Bục! Bùng!” một trái khói trắng được đánh dấu trong khu rừng hướng Tây.
Khói lên, hai cánh chim sắt sà xuống,
“Ùm! Ùm! Ùm!” bom nổ!
Sức bom làm đất đá văng lên cao, phủ kín một vùng rừng cây xanh đàng xa.
Bất ngờ, ngay sau đó, mắt tôi hoa lên, v́ thấy trên không bỗng choáng ngợp, chớp nhóa như hoa đăng thăng thiên do đạn pḥng không của địch.
Đạn 37 ly và 100 ly “
Bùng! Bùng!Bục! Bục!” gịn giă đua nhau nở kín một góc trời!
Hai cánh chim sắt A 37 và cánh diều O2 biến nhanh về hướng Bắc.
Tôi vừa được yểm trợ một phi tuần, c̣n phi tuần thứ nh́ th́ bị đ́nh chỉ.
Thiếu úy Nguyễn Công Minh-Pleime 1973
Trận chiến dằng dai chừng hai giờ sau th́ địch rút chạy. May mắn là quân ta không có ai bị thương. Địch chết phơi thây trên hàng rào nhiều lắm, nhưng tôi không màng tới chuyện thu nhặt chiến lợi phẩm. Mạng người là quư, bắt anh em chui vào hàng rào đầy ḿn và lựu đạn thu gom mấy cây súng găy để làm ǵ?
Hai ngày sau E 25 lại dẫn thân vào con đường tự vẫn bằng cách theo vết cũ của E 64/320A, cứ lừng lững hàng ngang chạy lên đồi bằng con dốc Bangalore đă mở sẵn cách đây gần nửa tháng. Kỳ này vũ khí công phá pháo đài và nhà cửa loại B40, B41 được địch sử dụng tối đa, mục tiêu của chúng là chiếm cho được hai Pháo đài số 4 hướng Tây Nam và số 5 hướng chính Tây.
Súng vừa nổ th́ hai khẩu 105 ly đă bắn liên tục, chặn địch quân từ hướng Bắc và hướng Tây.
Với quyết tâm đánh cho địch một trận phải tởn tới già, nên từ sáng sớm, tôi đă cho Thiếu úy Phạm Văn Thủy đem quân bố trí ngoài rào, nơi cuối phi đạo hướng Tây Nam của trại.
Đợi khi địch chạy theo nhau ào lên Pháo đài số 4 th́ quân ta nổ súng.
Đây có lẽ là trận đánh đẹp nhất đời chinh chiến của chàng thư sinh Phạm Văn Thủy.
Mũi dùi hướng Nam của E 25 bị cầm chân suốt hai giờ đồng hồ trong một khu vực có thế đất ḷng chảo, muốn tiến không được, muốn lui cũng không xong!
Thời gian này Pháo đài số 5 hứng chịu không biết bao nhiêu là đạn B40, B41 của địch.
H́nh như khẩu đại liên 30 trên Pháo đài số 5 đă không c̣n hoạt động, nên tôi không nghe tiếng súng liên thanh tràng dài, chỉ thấy tiếng M16 của súng cá nhân từng đợt phát ra từ đây.
Những tiếng
“Xèo! Xèo! Oành! Oành!” rộ lên từng đợt như những cơn gió giật trong trận băo.
Đạn cứ vèo vèo, theo nhau bay ṿng cầu xuống sân cờ. Dây treo lá quốc kỳ bị đứt, lá cờ chao qua chao lại trong bụi mù.
Hầm trú của tôi bị B40 bắn bay một góc, khẩu đại liên M60 của chú Yang bị găy càng.
Trong lúc t́nh h́nh lộn xộn, tôi sợ địch dùng Bangalore mở khẩu chiếm Pháo đài số 5 th́ chúng có thể tràn vào sân cờ.
Tôi leo lên hố cá nhân, rồi dùng hết sức ḿnh ném liên tiếp năm, sáu trái lựu đạn cay ra hàng rào, hy vọng khói cay sẽ gây khó dễ cho bọn điên rồ đang ào lên.
Đồng thời tôi kêu toán viễn thám của chú Nguyễn Chi đem một khẩu M60 theo giao thông hào lên tiếp cứu cho Pháo đài số 5.
Quả nhiên khói cay đă khiến cho quân xung phong của địch bị dội ngược. Ngoài rào im tiếng súng!
Chờ một hồi, không thấy B40, B41 bay vào nữa, tôi đi một ṿng kiểm soát trận địa th́ thấy khẩu đại liên 30 trên nóc Pháo đài 5 ngă chỏng gọng, anh xạ thủ bị găy tay trái, anh phụ xạ thủ bị một mảnh B40 ghim vào trán, mặt đầy máu me. Hai chú lính này tay ôm lựu đạn ngồi dưới giao thông hào. Trong pháo đài có bốn anh lính vẫn c̣n b́nh tĩnh trấn giữ hai lỗ châu mai.
Trận xung phong này địch nhắm ngay tuyến pḥng thủ ngoài cùng của Đại đội 2/81. May mắn là không có ai chết.
Trong số gần chục người bị thương của Đại đội 2/81 có ông đại đội trưởng là Trung úy Nguyễn Văn Song.
Khói súng vừa tan, chú Song đă ḅ tới hầm trú của tôi cười h́ h́,
–
Chút xíu nữa là em bỏ mạng sa trường rồi ông thầy ơi!
Thấy cái đầu chú Song quấn ba bốn lớp băng trắng mà máu đỏ c̣n chảy ṛng ṛng, tôi ái ngại,
–
Sao không nằm nghỉ mà ḅ sang đây làm ǵ?
– Th́ em sang thăm coi ông thầy có b́nh an không. Em thấy hầm của ông thầy trúng năm sáu trái B40, em lo quá!
Lúc đó lá quốc kỳ chỉ c̣n treo trên một đoạn dây dài chừng hai mét, quay quay trong gió.Tôi định gọi Hạ sĩ Ba thay sợi dây mới cho lá cờ th́ Trung úy Song đề nghị,
–
Ḿnh hạ cái cột cờ xuống đi Thái Sơn! Lá cờ cao quá, trở thành mục tiêu cho tụi nó pháo. Hầm của tui và của Thái Sơn nằm sát trụ cờ, dễ chết quá!
Tôi cười trấn an chú Song,
–
Ḿnh sống chết là v́ lá cờ này, không thể hạ nó xuống được! Lá cờ c̣n bay chứng tỏ chúng ta c̣n hiện diện, c̣n chiến đấu. Với lại, tụi Việt-Cộng dư biết, xưa nay xung quanh sân cờ là khu trống trải không có công sự pḥng thủ nào. Chỗ này hóa ra là nơi an toàn nhất!
Sau khi nghe tôi giải thích, anh sĩ quan đàn em của tôi bèn gọi Thiếu úy Phước giúp sức hạ cái cột cờ xuống, thay sợi dây mới, rồi hè nhau dựng cờ lên.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ lại tiếp tục phần phật bay trong gió một cách ngạo nghễ và đầy thách thức.
Lúc này quân của Thiếu úy Phạm Văn Thủy cũng vừa trở về tuyến pḥng thủ nơi cổng Nam. Thấy mặt ông đại đội trưởng 4/82 đỏ gay tôi thắc mắc,
–
Làm ǵ mà nước mắt nước mũi tèm lem vậy?
– Úi cha! Tụi nó đánh tui bằng hơi cay Thái Sơn ơi!
Tôi bật cười,
–
Lựu đạn cay của ḿnh đó!
Nghe tôi nói, chú Thủy mới ngẩn người,
–
Hèn chi tui thấy tụi nó cắm đầu chạy rồi tui mới thấy mắt mũi cay cay!
Mỗi ngày, cứ cách ba tiếng đồng hồ, tôi lại gửi một toán quân bí mật tuần tra mặt Tây Pleime. Từ Pháo đài 4 nơi góc trại hướng Tây Nam tới Pháo đài 6 ở góc trại Tây Bắc, tôi đánh dấu 4 hỏa tập T1, T2, T3, T4 dự trù cho súng cối 60 ly.
Toán tuần tra chỉ cần báo cáo địch đang ở vị trí nào, vài phút sau tôi đă có mười trái cối cho hỏa tập đó ngay.
Một hôm toán tuần tra của Binh 1 Yang báo cáo:
-
Tango 4! Đông lắm! (Tango 4 = Target 4 = Mục tiêu T4)
Hỏa tập T4 nằm về hướng Pháo đài 6, trách nhiệm của Thiếu úy Hổ.
Tôi điện thoại cho chú Hổ,
-T4 mười quả!
Khẩu 60 ly của Đại đội 3/82 chưa phóng đi được quả đạn nào th́ tôi đă nghe tiếng B 40 nổ “
Oành! Oành! Oành!…”
Pháo đài số 6 là nơi yếu nhất của Pleime. Pháo đài này nằm về hướng Tây của cổng chính, ngay góc của trại, sát vườn rau. Bên kia vườn rau là b́a rừng có những tảng đá lớn. Từ b́a rừng, địch có thể núp sau tường đá, bắn ta mà không sợ đạn bắn thẳng của ta.
Thời gian Thiếu úy Việt c̣n sống, Việt đă chuẩn bị sẵn 3 chuyên viên M79 bắn ṿng cầu để chế ngự khu rừng này. Không rơ Thiếu úy Hổ có khả năng đó hay không?
Tôi lủi xuống giao thông hào rồi “rẽ nước” phóng về Pháo đài số 6, theo sát sau lưng tôi là Thiếu úy Trần Văn Phước và toán viễn thám của Mom Sol.
Tôi chui vào pháo đài đúng lúc cái cḥi gác có mái tôn trên nóc lô cốt bị B 40 đánh sập.
Khẩu đại liên 30 bắn đă đỏ ṇng, mà B40 vẫn c̣n bay “
Xèo! Xèo! Xèo! Oành! Oành! Oành!” bên vách xi măng.
Ông Chuẩn úy (tôi không nhớ là ông Bảo hay ông Thiều) luồn tay ra khỏi lỗ châu mai thảy liên tiếp hai trái lựu đạn khói cay. Mùa này gió thổi liên tục từ Đông sang Tây, các pháo đài ở hướng Tây đều thủ sẵn một thùng lựu đạn loại này.
Dưới giao thông hào, tôi thấy ba ông lính đang ôm M79 núp trong hàm ếch. Tôi hét lên,
–
Không bắn mà ngồi đây chờ chết sao?
Ba ông xạ thủ nghe tiếng tôi quát mới hết run, chui ra khỏi hầm, leo lên hố cá nhân.
“Binh! Binh! Binh!…”
Ba viên M79 bắn lên trời, hai viên rơi trên đầu địch, nổ “
Ùm! Ùm!” bên kia suối, c̣n viên thứ ba th́ rơi ngay trên đầu… quân ta, nổ một tiếng
“Oành!” bụi đất mù mịt!
Hai ông lính Thượng bắn giỏi hơn ông lính Kinh; góc bắn của hai ông Thượng chếch về hướng Bắc, c̣n ông lính Kinh th́ bắn thẳng lên trời, đạn rơi ngay đỉnh pháo đài!
Chú Phước vung tay bợp tai ông lính Kinh hai cái rồi nẹt,
–
Đ! M! Cái đồ chết nhát!
Ông xạ thủ người Kinh sợ quá quay súng về hướng Bắc bóp c̣, bắn đại một viên.
Thấy thế Thiếu úy Phước cũng phải ph́ cười. Phước chụp tay ông lính Kinh giơ lên cỡ 60 độ cao rồi nói,
–
Ông nội ơi! Ông bắn cao cỡ này là được rồi! Ông nội ơi!
Đợt tấn công bằng B40 chợt ngừng. T́nh h́nh yên trong khoảng thời gian cỡ nửa giờ th́ trong hầm, qua lỗ châu mai, tôi thấy những vật tṛn tṛn như những trái túc cầu màu trắng di động lẫn trong đám cỏ lau. Tới khi đại liên đốn găy những thân lau sậy th́ ḷi ra vài cái xác te tua v́ trúng quá nhiều đạn. Hóa ra bọn này đang đội những cái túi nylon pḥng hơi ngạt để tiến lên.
Kỳ này chúng tôi không nghe những tiếng hô “
Xung phong!” chỉ v́ tất cả bọn cán binh này đều bịt kín đầu bằng bao nhựa, mũi th́ nhét bông g̣n tẩm thuốc giải độc, không nói năng, la hét được.
Những cái đầu bịt bao nylon tiếp tục bị bắn hạ. Địch lại chết đè lên nhau trên vạt đất đầy cỏ tranh và lau sậy. Ngoài rào là một ṿng cung đạn cối 60 ly tiếp tục nổ đều đều.
Thấy những cán binh Việt-Cộng đầu trùm bao nylon, tôi nhớ lại ngày Căn cứ 711 bị địch tấn công bằng hơi ngạt hóa học cách nay bốn tháng, tôi vội vàng ra lệnh cho toàn thể anh em chuẩn bị mặt nạ sẵn sàng, khi nào thấy thủ pháo địch bốc khói màu vàng th́ lập tức đội mặt nạ ngay.
Khổ một điều là nếu đứng dưới mưa, mang mặt nạ th́ chẳng khác chi một người mù, nước mưa làm cho hai mắt kính của mặt nạ nhoè nhoẹt, không thấy cảnh vật trước mặt, làm sao mà bắn nhau?
Cũng may suốt thời gian bị vây hăm, tôi không thấy hai thứ vũ khí mà tôi e ngại nhất là hỏa tiễn AT3 và thủ pháo chứa hơi hóa học giết người màu vàng.
Chừng một giờ sau kẻng báo động khua vang, quân trú pḥng lại rời hố cá nhân, ào xuống giao thông hào, chui vào hàm ếch v́ đạn 120 ly, 105 ly, 82 ly của địch bắt đầu rơi. Trận pháo này là dấu hiệu chấm dứt đợt xung phong.
Gần một tháng trời cứ trèo lên, nhảy xuống theo nhịp đạn pháo cối nổ, chúng tôi có cảm tưởng như ḿnh c̣n khéo hơn những ông lính đảm nhận công tác diễn tập trong các quân trường.
Thời gian này h́nh như Trung Đoàn 64/320A được điều động về hướng ngă ba làng Plei Xome, vùng Nam Căn cứ 711 để ngăn chặn quân tăng viện. Tôi cũng không nghe thêm tin tức ǵ của Trung Đoàn 48/320A; không biết đơn vị này c̣n chốt giữ vùng Đông Pleime hay đă di chuyển đi nơi khác rồi.
T́nh h́nh tạm yên vài ngày, cho tới một buổi trưa, Trung tá Hoàng Kim Thanh gọi tôi vào đầu máy,
–
Báo cho chú biết có đại ca Anh Đào dẫn Con Ó 45 và mấy chục con cua sắt vào tiếp viện cho chú đó!
(Con Ó 45 =Trung Đoàn 45 của Sư Đoàn 23 Bộ Binh)
Tôi buột miệng,
–
Thằng nào láo xược dám dùng danh hiệu “Anh Đào” vậy?
Sở dĩ tôi phản ứng một cách lỗ măng và phẫn nộ như vậy chỉ v́ cái tên “Anh Đào” chính là ám danh đàm thoại của Cố Thiếu tướng Trương Quang Ân, Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, nay ai đó ở Sư Đoàn 23 mà lấy tên “Anh Đào” làm danh hiệu th́ quả là quá vô lễ, hỗn hào.
Đầu dây bên kia, người xưng là “Anh Đào” đă nghe tiếng tôi, nên ông ta vội phân bua,
–
Chắc chú em biết danh hiệu “Anh Đào” là của ai rồi. Tôi cũng là một thuộc cấp của Anh Đào, tôi lấy ám danh đàm thoại là “Anh Đào” cũng là để tưởng nhớ người chỉ huy đáng kính của chúng ta mà thôi! Chú em đừng hiểu lầm!
Tôi bỏ ra khỏi hầm hành quân, không thèm nói thêm câu nào nữa với ông đại tá bộ binh, người chỉ huy đoàn quân đang vào tiếp viện cho tôi.
Sau này, anh Thanh có cho tôi biết ông “Anh Đào” Phùng Văn Quang, Đại tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45 Bộ Binh c̣n giận tôi lắm.
Mặt trận hướng Bắc có vẻ bùng nổ trở lại, súng nổ suốt ngày. Pháo binh từ Phú Nhơn dành ưu tiên cho các cánh quân bộ binh đang chạm địch, nên yêu cầu đánh chặn thường nhật của tôi bị từ chối.
Chiều 29 tháng 8 một tiếng nổ “
Ùm!” âm vang rừng núi. Trên bờ Tây của con suối cắt ngang đường xe be dưới chân tiền đồn Bắc có 4 quả ḿn chống chiến xa.
(còn tiếp)
- Vương Mộng Long
Nguồn: "Báo Trẻ Online"
Link:
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi...74-ky-9.baotre
.