Đă có nhiều người viết về Tết từ các góc độ lịch sử, văn hóa, xă hội và kinh tế với những lễ nghi và phong tục, những mơ ước và những kiêng kỵ, những món ăn và những thức uống, những truyền thống và những cách tân, những khác biệt trong cách đón Tết từ miền này sang miền khác. Ở đây, tôi thử nh́n ngày Tết từ một góc độ khác:C chính trị.
Thật ra, rất khó phân biệt ư nghĩa văn hóa và ư nghĩa chính trị của ngày Tết. Lư do đơn giản là ranh giới giữa văn hóa và chính trị nói chung, tự nó, khá mơ hồ. Nếu hiểu văn hóa là một hệ thống biểu tượng, niềm tin và giá trị mà một cộng đồng (được hiểu, ở phạm vi lớn nhất, là một quốc gia) tin tưởng và chia sẻ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để làm tiêu chí và tiêu chuẩn cho việc phân biệt và đánh giá cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai, cái nên làm và không nên làm, bạn và thù cũng như người đáng kính trọng hay không đáng kính trọng, không có thứ văn hóa nào lại không có tính chính trị, nghĩa là không ít nhiều liên hệ đến quyền lực. Ngược lại, cũng không có thứ chính trị nào lại không dựa vào những quy phạm và những bảng giá trị nào đó để quyền lực (power) được biến thành thẩm quyền (authority), từ đó, sự cai trị có được tính chính đáng (legitimacy) để dân chúng, hoặc ít nhất, đa số dân chúng có thể chấp nhận và tham gia: Những quy phạm và những bảng giá trị này đều thuộc phạm trù văn hóa.
Sự phân biệt giữa ư nghĩa văn hóa và ư nghĩa chính trị, do đó, chỉ có tính chất tương đối: Cùng một ư nghĩa, từ cái nh́n dài hạn, là văn hóa, từ cái nh́n ngắn hạn, là chính trị; khi chỉ tác động vào vô thức, nó thuộc phạm trù văn hóa, khi tác động đến cả cách hành xử của con người, trong những trường hợp cụ thể, với một số mục đích cụ thể nào đó, th́ lại thuộc phạm trù chính trị; khi chỉ gắn liền với truyền thống, nó là văn hóa, khi vừa gắn liền với truyền thống vừa gắn liền với quyền lực, nó lại là chính trị.
Về phương diện văn hóa, ư nghĩa của ngày Tết đă được bàn luận khá nhiều. Hầu như ai cũng đồng ư, Tết bao gồm hai khía cạnh chính: Lễ và hội. Nói đến hội là nói đến các sinh hoạt, bao gồm các đám rước và các cuộc diễn, các món ăn và các tṛ chơi, việc giải trí và việc buôn bán. Nói đến lễ là nói đến việc cúng tế và cầu nguyện. Có thể nói, hội là xác, lễ là hồn; hội là vật chất, lễ là tinh thần, hội là phần tục, lễ là phần thiêng; hội là mặt nổi, lễ là phần ch́m.
Chính cái phần lễ ấy làm cho ngày hội Tết trở thành quan trọng, hơn nữa, thiêng liêng. Nó làm cho ngày Tết có một sắc thái mới: Trang trọng, một không khí mới: Tín ngưỡng, và một kích thước mới: Kích thước siêu h́nh với chức năng tạo sự liên thông giữa cá nhân và tập thể, hiện tại và quá khứ, sinh hoạt và truyền thống, vật chất và tinh thần, những người đang sống và những người đă chết. Với những chức năng ấy, ngày Tết, cũng như những lễ hội lớn khác, c̣n thêm một chức năng khác nữa: Góp phần tạo thành cộng đồng như một tập thể có sự nối kết nội tại mật thiết dựa trên nền tảng một số điểm chung nào đó. Không có cộng đồng nào, dù là một làng hay một nước, lại không có một số điểm chung nhất định. Điểm chung ấy càng vững chắc nếu nó có chiều rộng với những sinh hoạt đông người và chiều sâu với những kư ức tập thể lùi tận về những thời điểm thật xa xôi trong lịch sử.
Tất cả những ư nghĩa ấy đều có thể được nh́n thấy trong các sinh hoạt ngày Tết ở hải ngoại. Tuy nhiên, so với trong nước, chúng lại có khá nhiều nét đặc biệt. Thứ nhất, ở trong nước, Tết là một lễ hội lớn nhất nhưng không phải duy nhất. Ngoài Tết, Việt Nam c̣n nhiều lễ hội khác, hoặc ở tầm quốc gia (như Trung Thu, chẳng hạn) hoặc ở tầm địa phương (như hội Chùa Hương, hội Lim, hội chọi trâu ở Đồ Sơn, hội Đền Hùng, v.v...). Ở hải ngoại, Tết là lễ hội duy nhất được tổ chức với quy mô lớn và thu hút sự chú ư hầu như của cả cộng đồng. Thứ hai, một số ư nghĩa của ngày Tết cũng thay đổi: Ở Việt Nam, nó là khởi đầu của một năm mới đồng thời của một tuổi mới, từ đó, được xem là khởi đầu của một chu kỳ mới gắn liền với những mơ ước và hy vọng mới; ở hải ngoại, dần dần người ta xem năm mới, thực sự là năm mới, bắt đầu từ Tết Dương lịch chứ không phải là Tết Âm lịch, c̣n tuổi tác th́ được tính theo sinh nhật chứ không phải theo Tết, do đó, Tết không c̣n gắn liền với mơ ước và hy vọng nào nữa: Nó chỉ c̣n thuần là một sự kiện. Thứ ba, những cái gọi là ư nghĩa liên thông của ngày Tết, ở trong nước, thường chỉ giới hạn trong phạm vi gia đ́nh, ḍng tộc, láng giềng, thầy tṛ, hoặc lớn hơn, giữa con người và quê quán (hiểu theo nghĩa là một làng nào đó); ở hải ngoại, nó mở rộng, rất rộng, ở phạm vi dân tộc: Tết là cơ hội hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, để những người Việt Nam đang sống ở nước ngoài, ư thức và cảm nhận sâu sắc về căn cước của chính ḿnh, về cái điều không phải lúc nào người ta cũng nhớ: Ḿnh là người Việt Nam.
Chính ở nét đặc biệt thứ ba này, ư nghĩa văn hóa biến thành ư nghĩa chính trị.
Trước hết, xin nhấn mạnh: Phần lớn người Việt ở hải ngoại, nhất là những người thuộc thế hệ thứ nhất, tức những người rời Việt Nam khi đă đến tuổi trưởng thành, đều vẫn giữ được khá nhiều nếp cũ. Trong thói quen ăn uống. Trong ngôn ngữ. Trong các quan hệ xă hội (với bạn bè người Việt) cũng như sinh hoạt văn hóa (xem ti vi, phim ảnh, nghe ca nhạc hoặc theo dơi sách báo bằng tiếng Việt). Ở một số địa phương, nơi có đông người Việt, nhiều người có cảm giác họ đang sống ở Việt Nam chứ không phải trên một đất nước khác. Ở nhà: Nói và nghe tiếng Việt. Ra chợ: Cũng nói và nghe tiếng Việt; cũng mua rau muống, ng̣, húng, quế, mít, sầu riêng, hột vịt lộn, ḷng gà, ḷng heo, mắm tôm, mắm ruốc... như ở Việt Nam. Vào tiệm ăn: Cũng cơm tấm b́ sườn chả trứng, cũng phở, cũng bún ḅ Huế, cũng ḿ Quảng, cũng bánh bột lọc hay bánh bèo; cũng chè ba màu hay cà phê sữa đá... như ở Việt Nam. Khám bệnh: Bác sĩ Việt Nam. Mua thuốc: Tiệm thuốc Tây Việt Nam. Có chuyện liên quan đến luật pháp, gặp luật sư: Cũng luật sư Việt Nam. Dường như toàn bộ thế giới họ sống là Việt Nam. Nhưng những sinh hoạt hàng ngày, thậm chí, hàng giờ, như một thói quen như thế không thể gợi nhắc ai là người Việt cả. Thói quen là lănh vực của tiềm thức và vô thức. Chứ không phải của ư thức. Chỉ có các biến cố mới có chức năng ấy.
Ở hải ngoại, chỉ có hai loại biến cố có khả năng nhắc nhở chúng ta là người Việt. Một loại có tính chất bất thường, bao gồm một số biến cố chính trị lớn bùng nổ ở Việt Nam hoặc những chính sách mang màu sắc kỳ thị mà người Việt trực tiếp là nạn nhân ở ngay chính quốc gia họ đang sống. Loại này, do tính chất bất thường, chúng ta tạm thời gác lại. Một loại khác có tính chất b́nh thường, một sinh hoạt thuộc truyền thống: Đó là ngày Tết. Chỉ là ngày Tết.
Vâng, chỉ có Tết mới đẩy chúng ta ngược về gốc rễ của ḿnh, làm chúng ta cảm nhận sâu sắc ḿnh là người Việt. Là người Việt ở tận đáy tâm thức sâu xa của chúng ta. Là người Việt trọn vẹn và đúng nghĩa.
Xin nói ngay, tác động vừa nói của ngày Tết có thể phát huy mà không cần chúng ta phải làm bất cứ điều ǵ cả. Xin lấy trường hợp của tôi làm ví dụ. Tôi không phải là người quá nặng ḷng với truyền thống. Tết, nhà tôi không có một sinh hoạt ǵ đặc biệt. Không bàn thờ. Không cúng. Không đến chùa. Không hái lộc. Không xem hướng xuất hành. Không xông đất. Và cũng hiếm, thật hiếm khi tham gia các hội chợ Tết do các cộng đồng tổ chức. Vậy mà, năm nào tôi cũng thấy không khí Tết đầy ắp trong nhà. Và, nhất là, trong ḷng: Có cái ǵ đó cứ nôn nao. Ngay cả khi ngồi một ḿnh, giữa khuya, trước màn ảnh computer, vẫn có cảm giác như có người, nườm nượp người, chung quanh. Không phải chỉ có những người c̣n sống mà cả những người đă chết. “Những người muôn năm cũ”. Tất cả đều về, đông đúc và ồn ào. Để... đón Tết với tôi.
Từ kinh nghiệm ấy, tôi nhận ra một điều: Tết không phải là sự kiện mà là một không gian. Chúng ta có thể tránh được sự kiện, nhưng tránh được không gian. Không gian bao trùm lấy chúng ta, hơn nữa, chuyển hóa mọi sinh hoạt thành Tết, hay nói cách khác, nó Tết-hóa mọi thứ.
Xin lấy chuyện ăn uống ngày Tết làm ví dụ.
Ở những nơi khác, người ta đón Tết, mừng Tết; ở Việt Nam, chúng ta ăn Tết. “Ăn”, như ăn tiệc, ăn cưới, ăn giỗ, ăn liên hoan. Thật ra, chúng ta cũng cử hành nhiều nghi lễ và tổ chức nhiều hội hè như ở các nơi khác, nhưng việc ăn uống, với chúng ta, bao giờ cũng chiếm vị trí trung tâm. Người sống ăn. Người chết ăn (cúng). Cả thần linh (ông Táo) cũng được ăn uống linh đ́nh. Trong kư ức cũng như tâm thức của người Việt, không có ǵ liên quan đến Tết mà lại không gắn liền với một số loại thực phẩm nào đó. Trong sáu h́nh ảnh tiêu biểu của ngày Tết được nêu lên trong câu đối quen thuộc “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, có đến ba thứ, tức một nửa, là thực phẩm. Nhưng đó không phải là tất cả. Cái gọi là “thịt mỡ” ấy, ở miền Bắc thường là thịt đông; ở miền Nam, là thịt kho tàu; ở miền Trung, là gị heo hầm chuối chát hoặc thịt ngâm nước mắm. “Dưa hành” chủ yếu ở miền Bắc, ở miền Trung là củ kiệu và dưa món; ở miền Nam là các loại dưa giá hẹ muối xổi. Hiện nay bánh chưng phổ biến khắp nơi, nhưng ngày trước, ở miền Nam và miền Trung, hầu như chỉ có bánh tét.
Nhiều người than thở: Các loại thực phẩm vốn được xem là đặc sản của Tết đang dần dần mất hết ư nghĩa. Bây giờ, trong chợ hay siêu thị, từ Việt Nam ra ngoại quốc, ở đâu có đông người Việt, bất cứ ngày nào, tháng nào, mùa nào cũng có bánh chưng và bánh tét. Thịt kho hay thịt đông, ngày xưa, chỉ xuất hiện trên các mâm cỗ Tết, bây giờ, là thức ăn hàng ngày. Thích lúc nào người ta ăn lúc ấy. Chả có ǵ là đặc biệt nữa.
Th́ đành là đúng. Nhưng điều đó không có nghĩa là ư nghĩa của thức ăn ngày Tết không c̣n. C̣n, ở một điểm: B́nh thường, chúng là thức ăn, ăn cho no hoặc cho khoái khẩu; ngày Tết, chúng là thức ăn của huyền thoại, ăn để... nhớ.
Như bánh chưng, chẳng hạn. Ngày thường, chúng ta có thể ăn bánh chưng. Nhưng những lúc ấy, bánh chưng chỉ là bánh chưng. Người ta ăn v́ thích, hoặc nhiều hơn, v́ tiện: Khỏi phải nấu nướng và có thể giữ được lâu. Trong không khí ngày Tết, việc mua hoặc nấu bánh chưng không c̣n là một chọn lựa ngẫu nhiên hay một ư thích bất chợt, xuất phát từ khẩu vị, mà là một điều gần như bắt buộc, gắn liền với bổn phận, có tính chất nghi lễ: Nhà nào cũng có. Tính chất “bắt buộc”, “bổn phận” và “nghi lễ” ấy làm cái bánh chưng trở thành một biểu tượng, nghĩa là vừa là một vật thể vừa là một ư nghĩa. Ư nghĩa ấy lại gắn liền với sự tích bánh chưng và bánh dày với Lang Liêu (hay c̣n gọi là Tiết Liêu) và vua Hùng Vương thứ 6, với ư niệm về Trời và Đất, về công cha và nghĩa mẹ, và gần đây, theo một số học giả về Việt học, về tín ngưỡng phồn thực với h́nh ảnh của dương vật (bánh chưng, ngày xưa, có h́nh dài, giống bánh tét bây giờ) và âm vật (bánh dày).
Từ đó, trong ngày Tết, chỉ trong ngày Tết, bánh chưng trở thành biểu tượng của truyền thống, và nhờ tính truyền thống ấy, cái bánh bỗng có chiều dày của thời gian. Nó có kư ức. Trước hết là kư ức chính thức được ghi trong sử sách: Ăn bánh chưng trong ngày Tết, do đó, là ăn cùng với Lang Liêu, với các vua Hùng, và với tổ tiên nói chung. Sau nữa là kư ức cá nhân: Không có người nào sinh ra và lớn lên tại Việt Nam mà lại không có ít hay nhiều kỷ niệm với bánh chưng, từ kỷ niệm mổ heo đến kỷ niệm nấu bánh và ăn bánh. Văn chương Việt Nam đầy dẫy những loại kỷ niệm như thế. Ăn bánh chưng, do đó, là sống lại một quăng đời đă mất.
Cả kư ức cá nhân lẫn kư ức tập thể ấy đều đưa chúng ta về nguồn: Việt Nam.
Một thứ trái cây khác, như dưa hấu, cũng vậy. Mùa Hè, trời nóng, hầu như trong chúng ta ai cũng ít nhiều ăn dưa hấu. Bản thân tôi, có thời gian, Mùa Hè, hầu như ngày nào cũng ăn dưa hấu. Đi làm về, bước ra khỏi xe vào nhà, mồ hôi đầm đ́a, công việc đầu tiên tôi làm là mở tủ lạnh, lấy tô dưa hấu cắt sẵn, ngoạm từng miếng. Dưa hấu trôi đến đâu, hơi mát tràn đến đó. Nhưng, những lúc như thế, tôi chỉ ăn dưa hấu. Thuần túy là dưa hấu. Dưa hấu mua từ chợ hoặc siêu thị. Nhưng cũng những miếng dưa hấu ấy, trong ngày Tết, có cái ǵ khác hẳn. Tôi thường thoáng chút ngần ngại khi phải bổ trái dưa hấu. Tôi muốn đặt nguyên trái trên bàn. Để có không khí. Khi ăn, tôi cắn từng miếng, từng miếng thật chậm. Và Tết nào cũng thế, cũng đều nhớ đến chuyện An Tiêm ngày xưa. Đó là trái dưa hấu của An Tiêm, con nuôi của vua Hùng. Nhớ thế, tôi ngỡ như đang ăn dưa hấu chung với An Tiêm.
Mà đâu phải chỉ có An Tiêm. Cùng với An Tiêm, c̣n có Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh và Kiều Phú, những người đầu tiên chép truyện An Tiêm trong Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ 14-15), rồi Nguyễn Trọng Thuật, tác giả của Quả dưa đỏ (1925), một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam mà tôi đọc hồi nhỏ, những năm đầu của trung học. Ngoài những tên tuổi lớn ấy, mỗi lần ăn dưa hấu ngày Tết, tôi c̣n nhớ một người khác, Lê Quư Long, một người đồng hương của tôi, người, trong cuốn Việt sử văn vần, xuất bản ở Huế năm 1971, có bài thơ về An Tiêm: “An Tiêm phải bị cha đày / Sống nơi hoang đảo chuỗi ngày bơ vơ / Một hôm chim lạ t́nh cờ / Nhả rơi một hạt ai ngờ giống dưa [...]Mang theo dưa hấu nặng nề / Nên bây giờ có khắp quê hương ḿnh.” Bài thơ đơn giản, như một bài diễn ca, không có ǵ đặc sắc, vậy mà, không hiểu sao, đă trên 30 năm rồi, tôi vẫn nhớ. Không trọn vẹn. Nhưng nhớ. Tôi nghĩ, nhớ được, không phải v́ bản thân bài thơ. Mà là v́ những quả dưa hấu ngày Tết: Chúng nhắc.
Những ví dụ nho nhỏ trên cho thấy, trong ngày Tết, ngay cả những thứ mọn nhất, từ một quả dưa hấu đến một lát bánh chưng hay bánh tét, đều có hấp lực kéo chúng ta về quá khứ: Nhỏ, là những kỷ niệm thuộc về cá nhân; lớn, là truyền thống của cả một dân tộc. Chính v́ thế, Tết, chúng ta thường hay hồi tưởng và nhớ vu vơ. Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh. Có một khía cạnh khác, lớn và có ư nghĩa chính trị hơn: Mọi thứ trong ngày Tết đều vun bồi kư ức tập thể trong mỗi người, khiến mỗi người tự thấy ḿnh là một thành viên của cả một cộng đồng đông đúc, là một đoạn ngắn trong chuỗi dài của lịch sử dằng dặc. Với ư thức ấy, chúng ta trở về với gốc rễ của chúng ta: Việt Nam.
Ngày thường, mỗi người trong chúng ta có thể là Việt Nam. Nhưng chỉ với tư cách cá nhân. Chỉ trong ngày Tết, cái gọi là Việt Nam ấy mới có độ rộng của cả một cộng đồng và mới có độ dày của truyền thống và của lịch sử. Chúng ta là Việt Nam từ gót chân lên đỉnh đầu chứ không phải chỉ ở màu da hay ở cái miệng biết nói được tiếng Việt, đồng thời chúng ta là người Việt Nam giữa vô số những người Việt Nam khác. Trong ư nghĩa này, Tết là cơ hội, hầu như duy nhất trong năm, vừa củng cố gốc rễ mỗi người vừa đoàn kết mọi người trong một kư ức chung. Những ngày lễ khác có thể củng cố gốc rễ nhưng lại phân hóa theo những kỷ niệm và kinh nghiệm khác nhau (ví dụ ngày 30/7 hay ngày Quốc Khánh trước và sau 1975...)
Hai tác dụng vừa nêu của ngày Tết (củng cố gốc rễ để mỗi người tự cảm nhận sâu sắc về sự kiện ḿnh là người Việt Nam và ư thức ḿnh là người Việt Nam giữa hàng chục triệu người Việt Nam khác) vừa có ư nghĩa văn hóa vừa có ư nghĩa chính trị. Trong hoàn cảnh lưu vong, sống ở nước ngoài, ư nghĩa chính trị nổi bật hơn ư nghĩa văn hóa.
Ở trong nước, làm-người-Việt-Nam là điều tự nhiên, làm người tự do là một lựa chọn chính trị; ở ngoài nước, làm người tự do là điều tự nhiên, làm-người-Việt-Nam lại là một lựa chọn đầy màu sắc chính trị. B́nh thường, sự lựa chọn ấy có tính chất tự phát, từ vô thức, nên ít được để ư. Chính ngày Tết nguyên đán biến sự lựa chọn ấy thành một hành động có tính chất tự giác, thuộc phạm trù ư thức.
Nói Tết, với người Việt Nam ở hải ngoại, có ư nghĩa chính trị là v́ thế.
tm
|
|