Gần đây có quyết định dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rơ trên giấy tờ liên lạc với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster ban tổ chức đă dùng danh xưng của tượng là ǵ nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần.
Lễ khánh thành tượng Đức Thánh Trần tại Little Saigon đầu tháng 9
Khác với các nhân vật lịch sử khác như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lư Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Quang Trung …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương khói, đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm chính thức đến tế. Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ, c̣n được coi là đă hiển linh để phù hộ, giúp đỡ đồng bào của ḿnh, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết Kiêu, Dă Tượng luôn luôn được truyền tụng là đă hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn t́m ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước đây ai cũng biết
Sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đă mang theo các thần của ḿnh là một sự kiện đă xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis, của họ, điển h́nh là hai đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ phải bỏ xứ mà đi. Họ đă tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những quốc gia-đô thị, những polis mới ở nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đă mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử, văn minh và văn hoá, đă trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đă tự ḿnh đứng vững và phát triển, không c̣n bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.
Người Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đă hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đă trở thành nhũng nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đă ghé thăm những nơi này. Điều đáng để ư là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn lạnh.
Chiến tranh kết thúc, nhiều người Việt bỏ nước ra đi
Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở Hải Ngoại đă được gần tṛn 40 tuổi, đă trải qua giai đoạn sống c̣n, đă mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn,có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đă h́nh thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, ṃn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không c̣n đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn c̣n không ít của ḿnh. Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đă vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đă đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đă tự ḿnh hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đă có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của ḿnh với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đă có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lănh. Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của ḿnh nhưng vẫn được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó.
Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đă đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đă xuất hiện và đă thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết về xă hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đă đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt.
Người Việt nay có cộng đồng lớn tại Mỹ
Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không c̣n bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người tỏ ra đă yêu mến nghề dạy học ngay từ khi c̣n học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đă đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người đă chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là quư, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất khó v́ rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều, bè cánh phe phái rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính ḿnh và hạnh phúc của chính ḿnh.
Cộng đồng của chúng ta đă độc lập, đă tự đứng vững và phát triển trong suốt 39 năm qua không hề phải nhờ và vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đôla hàng năm đă được gửi về làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước. Có điều thay v́ để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát triẻn, cùng hưởng th́ các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đă coi nó như một con gà đẻ trứng vàng, t́m cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người c̣n cổ vơ đưa các thày ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại. Cổ vơ nhưng vị này không hề quan tâm đến t́nh trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính trong nước mà rất nhiều bài thuyết tŕnh, khảo cứu đă được phổ biến trong nhiều cuộc hội thảo ở khắp nơi trên thế giới, ở Mỹ. ở Canada, ở Úc, ở Pháp, trên báo chí, truyên truyền thanh, truyền h́nh, trong những năm qua.
"Chúng ta đă có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lănh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong ḷng mọi người dân của nó."
Sự h́nh thành của Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt Nam đă phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Chúng ta đă không có được một lănh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc, đă ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đă có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lănh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong ḷng mọi người dân của nó. Một siêu quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các nước đă mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” th́ khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.”
Cộng Đồng của chúng ta đă vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở. Chúng ta không cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đă bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn c̣n lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm ǵ được chúng ta v́ chúng ta đă có Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hăy cùng nhau giữ cho tượng ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ ḷng tôn kính ngài.
Chúng ta đă khơi lại được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng. Đó là tùy thuộc chúng ta. Những người đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được điều này v́ dù có muốn họ cũng không làm được và không được phép làm và cũng v́ tất cả đều đă quá ṃn mỏi, khô cằn, nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ c̣n trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta.
Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả. Ông Phạm Cao Dương lấy bằng tiến sĩ sử học ở Đại học Paris, và dạy ở nhiều đại học tại Sài G̣n trước 1975. Sau khi sang Mỹ, ông dạy về lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam ở một số trường tại Nam California trước khi về hưu.
BBC