Tạp ghi Huy Phương
“Chuyến tôi đi xe đ̣ đứt thắng,
Đ. mẹ đời, đ. má tương lai”
(Ca Dao, 30 tháng 4)
* Chương ba mươi tám “Đèn Cù”
Tôi cho rằng chương sách đáng đọc nhất của tác phẩm “Đèn Cù” là chương 38, chương sách nói về ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nếu độc giả không có thời giờ hay ít quan tâm, đọc một chương sách này cũng đă đủ.
Xe tăng của quân đội Bắc Việt tiếp tục đổ vào miền Nam Việt Nam vào ngày 12 tháng 5, 1975, để ngỡ ngàng trước đời sống sung túc của người dân miền Nam. (H́nh: AFP/Getty Images)
Cũng như “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức viết về ngày Sài G̣n thất thủ, khi mà cờ xí, biểu ngữ ngợp trời, loa phóng thanh ầm ĩ loan tin ngày đại thắng, Trần Đĩnh cảm nhận được cái thất vọng, hụt hẫng, đau đớn của một người đă bao nhiêu năm, bỏ hết tuổi thanh xuân đi theo kháng chiến để chống Tây diệt Mỹ, tàn sát anh em để thống nhất đất nước! Những ǵ Huy Đức suy nghĩ trước đây hẳn không khác hơn Trần Đĩnh, Dương Thu Hương hay tất những người Việt Nam:
“...Ngày 30 tháng 4, 1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đă giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nh́n lại suốt hơn ba mươi năm, giật ḿnh với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.” (Lời Nói Đầu - Bên Thắng Cuộc.)
Hạ màn! Câu nói nửa chừng của Trần Đĩnh “Chả lẽ trời đất quỷ thần lại phù hộ...” cho chúng ta hiểu là kẻ xấu, bọn tà đă... thắng! Trời quả là không có mắt như câu nói ngày xưa của nhân gian!
Trên báo Nhân Dân, sau ngày 30 tháng 4 tại Hà Nội, Trần Đĩnh bất măn v́ chi tiết trong bài báo của Bùi Tín nói đến thực đơn của tổng thống “Ngụy” (trưa hôm đó có hai món chính là gân ḅ hầm sâm và cá thu kho mía,) mà theo Trần Đĩnh, “Kiểm kê sự ăn uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động quần chúng căm thù bọn bóc lột.” Theo tôi, thêm vào đó là sự thèm khát miếng ăn, để xem bọn “ngụy” nó ăn ǵ? Chi tiết đó có thể làm kẻ chiến thắng hả hê nhưng sự thật có đáng hiện diện trong một bài báo của một tổng biên tập lớn của một tờ báo lớn, trong một ngày máu xương chất đống hay không?
Một ông cụ thổi kèn Tây trong ban nhạc của triều đ́nh Huế thời Bảo Đại, tập kết ra Bắc, sau ngày “chiến thắng” chỉ c̣n độc một đôi dép râu, không có cả...bít tất. Ông cụ nói như lời trăng trối:
“Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng th́ chết trong Tết Mậu Thân... Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một ḿnh... Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?”
Trần Đĩnh cũng như triệu triệu người miền Bắc ngây ngô, mơ màng thằng dân trong này bị bóc lột tận xương tủy, không có nổi cái chén mà ăn cơm, trong hành lư vào Nam của Trần Đĩnh có năm bảy thứ cứu đói vào, trong đó có cả một cái thùng nhựa đựng nước kẻo sợ trong Nam không có được cái miểng sành chăng?
Người ngoài Bắc nô nức đi Nam xem chúng nó bị bóc lột đến cỡ nào, không ngờ “trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hóa ra đá!” hay “buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét!”
Dân miền Nam quả là không đợi không chờ ai vào giải phóng. Câu chuyện của Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh TTX (1971) kể lại cái hí hửng của kẻ “giải phóng” khi vào Sài G̣n đă bị một thau nước lạnh dội vào mặt. Bà mẹ ra mở cửa, thấy mặt anh th́ vội vàng chấp tay lạy:
“Anh c̣n sống th́ tôi mừng nhưng anh về th́ tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đă bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về th́ nhà này tan nát, th́ tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên!”
Thân phụ Trần Đĩnh di cư vào Nam từ năm 1975 đă sụt mất 17 kg từ ngày “giải phóng,” thấy con khốn khổ v́ đảng th́ mừng, và ngay những ngày đầu tiên đă có nhận xét:
“Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn như thời Cộng Sản. Các tay này không biết ḷng dân là thế nào sao?... Cái khó chịu nhất là dân trong này thấy ḿnh bị khinh miệt.”
“Bố đi bộ về đến đầu phố th́ bị một anh bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau về nhà nằm. Không được, đứng nghiêm năm phút! Bố lại ngỡ như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường th́ anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nh́n thiên hạ qua lại nh́n ḿnh. Đứng đă ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến thắng, phân tích chiến thắng...”
Dân Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh sau ngày được “giải phóng,” đua nhau vào Sài G̣n mua bán ve chai, như Trần Đĩnh đă viết:
“Gặp ve chai đồng nát đạp xe tơi tới ở Sài G̣n, tôi chợt thấy ḿnh thường hay hỏi: ‘Thanh hay Nghệ đấy?’ Đâu chỉ hai căn cứ địa lớn này của Đói. Khắp mọi nơi! Từ Nam chí Bắc...”
“Nh́n mặt bà ve chai này tôi bỗng nhớ câu 'chiến thắng mang gương mặt khổ đau cùng cực' của Olga Bergolzt, nhà thơ nữ Nga bị đày ải hết đời. Bà ta nói thay cho tất cả những ai sống với Cộng Sản. Cộng Sản lúc đầu hấp dẫn nhờ đưa ra các hứa hẹn thỏa măn toàn bộ các nhu cầu của con người. Nhưng phiệu hết. Chỉ c̣n bành trướng quyền lực của cộng là nhu cầu duy nhất phải thỏa măn. Vỡ mộng, dân bèn có nhu cầu trừng phạt cái tội lừa dân. Và cậy đến bất cứ thứ ǵ không phải cộng.”
Người phụ nữ quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa, mua ve chai này, đă đi thanh niên xung phong - bất măn, thất vọng trước thời thế, cho rằng:
“Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa th́ sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này th́ chả đi hy sinh làm ǵ. Hai cụ không nghe thấy dân đă có câu ca đấy ư?... Áo lính chưa ráo máu đào, Mà xe vợ tướng đă vào tới nơi.” Đẹp... Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết...”
Cộng Sản vào Nam, một năm sau khi Trung Cộng dùng vũ lực chiến Hoàng Sa, báo Sài G̣n Giải Phóng đă ca tụng và đoan chắc:
“Trung Quốc vĩ đại không chỉ là người đồng chí, mà c̣n là ông thầy tín cẩn, đă cưu mang chúng ta nhiệt t́nh để chúng ta có được ngày hôm nay, th́ chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại.”
Và cái chính sách nhân đạo khoan hồng của Cộng Sản Bắc Việt kiểu Phạm Văn Đồng:
“Đế quốc Mỹ và tay sai đă biến chúng từ con người thành ra dă thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính.”
Mấy năm sau, Cộng Sản lộ nguyên h́nh là một lũ cướp ngày, từ chuyện lùa dân đi kinh tế mới, đánh tư sản, đổi tiền, tổ chức thu vàng cho vượt biển “bán chính thức,” dân chủ vạn lần hơn tư bản đâu không thấy, nhưng tham ô, lừa đảo khốn nạn hơn cả trăm lần xă hội miền Nam trước đây.
Giải phóng! Bọn cháu Trần Đĩnh năm đứa cả trai lẫn gái, đứa lớn chưa đầy 17 tuổi kéo nhau xuống tàu vượt biển để thấy ông bác bao nhiêu năm đi theo Cách Mạng là không cần thiết, chỉ làm khổ đồng bào, bà con ruột thịt, tốn máu xương của nhân dân mà thôi!
Có một điều, cần phải nói ra đây, tác giả Trần Đĩnh v́ thói quen chữ nghĩa, trong chương ba mươi tám đă viết rằng, “Gia đ́nh tôi mất liên hệ với nhau đă lâu” (ư nói cha con cách biệt). Thật ra không nghe nói chuyện cha con ông từ bỏ nhau, mà chỉ v́ hoàn cảnh Bắc Nam không “liên lạc” được với nhau mà thôi!
Theo NV