Cách nay rất lâu, chủ nhiều doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam nhận ra gia công vừa thiệt tḥi đủ đường, vừa bấp bênh nhưng họ không thể làm khác v́ muốn làm khác phải được hỗ trợ bằng chính sách, bằng kế hoạch ở tầm vĩ mô nhưng hệ thống công quyền ở Việt Nam không bận tâm đến điều này.
Báo điện tử VnExpress vừa đăng “Thất thế trên sân nhà” (1) - mô tả và lư giải tại sao doanh nghiệp Việt Nam lụn bại, công nhân Việt Nam khốn khổ, bế tắc. Bài viết vừa đề cập dẫn một số trường hợp hoạt động trong lĩnh vực dệt may từ giữa thập niên 1990 nhưng không thể tích lũy nội lực để trưởng thành hơn trên xứ sở của ḿnh. Nguyên nhân chính là v́ họ không thể thoát khỏi vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị dệt may.
Cách nay rất lâu, chủ nhiều doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam nhận ra gia công (thực hiện sản phẩm theo đơn đặt hàng bằng nguyên liệu, phụ liệu do ngoại quốc cung ứng) vừa thiệt tḥi đủ đường, vừa bấp bênh nhưng họ không thể làm khác v́ muốn làm khác phải được hỗ trợ bằng chính sách, bằng kế hoạch ở tầm vĩ mô nhưng hệ thống công quyền ở Việt Nam không bận tâm đến điều này.
Lĩnh vực dệt may hoạt động theo ba phương thức: Thứ nhất, doanh nghiệp nhận gia công, toàn bộ nguyên liệu, phụ liệu do bên đặt hàng cung cấp (gọi tắt là CMT). Thứ hai, doanh nghiệp chủ động chọn mua nguyên liệu, sản xuất, rồi giao hàng (FOB). Thứ ba, doanh nghiệp được tham gia cả vào khâu thiết kế (ODM). VnExpress dẫn một nghiên cứu về ngành dệt may Việt Nam mà Công ty Chứng khoán FPTS từng công bố, cho biết, phương thức CMT chỉ mang lại tỉ lệ lợi nhuận khoảng từ 1% đến 3% - thấp nhất trong toàn chuỗi giá trị. Khoảng 65% hàng dệt may xuất cảng của Việt Nam được thực hiện theo phương thức CMT. Số lượng đơn đặt hàng theo phương thức FOB - mang lại lợi nhuận cao hơn – chỉ chừng 30%. Chỉ có 5% hàng dệt may xuất cảng của Việt Nam được thực hiện theo phương thức ODM – phương thức mạng lại lợi ích lớn nhất!
Sở dĩ chủ nhiều doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam không thể thay đổi phương thức hoạt động, chuyển từ CMT thành FOB v́ phía đặt hàng không chấp nhận. Sở dĩ phía đặt hàng không chấp nhận v́ ngoài chất lượng và giá cả, họ phải biết chắc chắn rằng các doanh nghiệp cung ứng nguyên liệu, phụ liệu không vi phạm trách nhiệm xă hội, tránh nhiệm môi trường để hàng hóa không gặp những rủi ro kiểu như năm 2021, các loại hàng hóa sử dụng bông ở Tân Cương bị Mỹ cấm nhập khẩu v́ t́nh trạng cưỡng bức lao động ở Tân Cương, không bảo đảm tiêu chuẩn về nhân quyền. Doanh nghiệp chỉ được chấp nhận cho chọn - mua nguyên liệu, phụ liệu khi phía đặt hàng được cho biết đó là nơi nào, có thể thuê – cử một doanh nghiệp kiểm toán độc lập đến đánh giá tổng thể hay không,... Đây là những yếu tố phụ thuộc vào nhận thức và nỗ lực của hệ thống công quyền.
Việt Nam phải nhập cảnh khoảng 89% lượng vải cần thiết để sản xuất hàng may mặc xuất cảng, 55% của 89% này là nhập cảng từ Trung Quốc. Nhập cảng đồng nghĩa với phụ thuộc. Đó cũng là lư do, năm 2020, khi Trung Quốc áp dụng quyết định “nội bất xuất, ngoại bật nhập” để đối phó với đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may của Việt Nam ngắc ngoải v́ thiếu nguyên liệu.
Đó cũng là lư do doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may của Việt Nam thường xuyên khát việc, bị phía đặt hàng ép giá và chỉ c̣n một cách là ép lại công nhân để cả doanh nghiệp lẫn công nhân cùng tồn tại nhờ thứ mà khi mời gọi đầu tư ngoại quốc (FDI), các viên chức hữu trách trong hệ thống công quyền Việt Nam thường đem ra khoe như “lợi thế so sánh”: GIÁ NHÂN CÔNG RẺ!
Không phải tự nhiên mà doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may của Việt Nam không thể tái đầu tư để mở rộng sản xuất và nội lực yếu ớt đến mức không thể cầm cự được khi xảy ra “sốc thị trường”. Cũng không phải tự nhiên phần giá trị mà các doanh nghiệp Việt Nam đóng góp vào kim ngạch xuất cảng hàng dệt may không tăng bao nhiêu dù kim ngạch xuất cảng hàng dệt may tăng trưởng đều đặn. Giá trị xuất cảng hàng dệt may của các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 60% kim ngạch xuất cảng hàng dệt may của Việt Nam. Tương tự, giá trị xuất cảng hàng da giày của các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 60% kim ngạch xuất cảng hàng da giày của Việt Nam. Giá trị hàng hóa xuất cảng của Việt Nam chiếm khoảng 94% so so GDP và các doanh nghiệp FDI đang nắm giữ 74,4% giá trị hàng hóa xuất cảng. Đó là câu trả lời cho việc kinh tế Việt Nam nằm trong tay ai.
VnExpress dẫn nhận định của một số chuyên gia để khái quát: 35 năm mở cửa tiếp nhận FDI đă tạo ra t́nh trạng “doanh nghiệp Việt Nam thua ngay trên sân nhà” v́ “công cuộc hội nhập kinh tế đă đưa ngành dệt may Việt Nam đến khúc quanh mới: đổ xô vào gia công, dựa trên lợi thế so sánh lớn nhất là giá nhân công”. Theo bà Nguyễn Thị Xuân Thúy, chuyên gia về công nghiệp hỗ trợ: Thu hút FDI đă tạo ra sự thất thế về nguyên vật liệu kéo dài suốt 30 năm vừa qua và những lỗ hổng trong chuỗi cung ứng của doanh nghiệp chỉ thật sự lộ ra hậu quả khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA). Muốn được hưởng ưu đăi thuế khi xuất cảng, hàng may mặc “made in Việt Nam” phải bảo đảm xuất xứ của nguyên liệu cũng ở trong nước. Doanh nghiệp Việt Nam chỉ gia công nay “thua” v́ phụ thuộc hoàn toàn vào vải ngoại quốc. Đối tượng hưởng lợi tử các FTA là các doanh nghiệp FDI v́ họ có nguồn lực lớn, đầu tư đồng bộ hoàn thiện chuỗi sợi - dệt - may. Các quốc gia công nghiệp tiên tiến đều bắt đầu bằng ngành dệt may, sau đó t́m cách đi lên nấc cao hơn trong chuỗi giá trị. C̣n Việt Nam đă “lăng phí thời gian vàng”, ba thập niên vừa qua chỉ làm tốt công việc gia công, không đầu tư vào nghiên cứu phát triển, sản xuất vải. Chính sách đă không nh́n xa...
***
Đó chỉ là điểm xuyết về một lĩnh vực và một giai đoạn. C̣n tương lai th́ sao? Chắc là không sáng sủa ǵ hơn. Cả hệ thống công quyền đang như lên đồng với công nghệ cao, công nghệ sinh thái.
Sau khi dẫn lại một bài viết có tính chất tổng thuật về “35 năm mở cửa, tiếp nhận FDI” của VnExpress, ông Huỳnh Bảo Tuấn tâm t́nh trên mạng xă hội: Các quốc gia trên trái đất này thực hiện chiến lược FDI theo ba bước, ba giai đoạn, ba mươi năm: 10 năm đầu gia công, học hỏi quy tŕnh để cải tiến quy tŕnh. 10 năm sau sản xuất linh kiện, học hỏi chế biến, chế tạo sản phẩm và cải tiến sản phẩm. 10 năm cuối tham gia phát triển sản phẩm mới, học hỏi quá tŕnh nghiên cứu phát triển, quá tŕnh thiết kế và đổi mới sản phẩm. Nhật, Hàn, Ấn, Thái, Trung, Đài... đều đă thành công rực rỡ khi thực hiện đúng ba giai đoạn FDI để trở thành những quốc gia tạo ra được sản phẩm, dịch vụ của chính ḿnh và thay thế được sản phẩm dịch vụ của FDI.
Nhật, Hàn, Đài có sự hậu thuẫn của Mỹ th́ khỏi phải bàn. Trung Quốc cũng khỏi phải bàn về năng lực khoa học công nghệ, công nghiệp đă ngang tầm Nhật, Hàn từ lâu. Riêng Thái và Ấn là hai quốc gia đă tạo nên nền công nghiệp mà giờ đây hàng hóa tràn ngập Việt Nam, thay thế hoàn toàn nền sản xuất Việt. Riêng ngành dược th́ Ấn độ chiếm hơn 50% thị phần ở Việt Nam. Tất cả các quốc gia láng giềng đều thắng lợi với FDI, duy nhất Việt Nam trắng tay sau 35 năm. Đến giờ này FDI ở Việt Nam chỉ dựa trên lợi thế: đất và thuế, và trí tuệ Việt bị trả lương rẻ mạt. Cùng năng lực nhưng kỹ sư Việt, chuyên gia Việt, luôn bị trả lương thấp hơn từ 20% đến 30% so với người Singgapore, Thái, thậm chí Indonesia, Malaysia, chứ đừng kể tới Mỹ, Châu Âu, hay Nhật.
Đất nước có tự hào, tự cường, có sánh vai với cường quốc hay không? Dạ không! Bước chân vào các tập đoàn đa quốc gia ngay tại Việt Nam thôi, chả cần đi đâu cả để xem sự kỳ thị phân biệt đối xử và lương, chế độ phúc lợi, như thế nào. Bao nhiêu người Việt được tham gia vào tầm chiến lược của tập đoàn đa quốc gia. Năng lực trí tuệ của người Việt không hề thua kém thế giới, chỉ có nền quản trị, thể chế quốc gia quá thậm tệ mà năm mươi năm không thay đổi được bao nhiêu cả, nó ḱm nén trí tuệ, sức lực của cả dân tộc, chứ chả phải do thế lực thù địch nào đ́ hết. Tại sao 35 năm FDI trắng tay, chắc chắn không liên quan đến người dân Việt Nam, cũng không liên quan đến thể chế chính trị, nó chỉ liên quan đến ḷng tham và sự phụng sự cho quốc gia của những nhà hoạch định chính sách, xây dựng thể chế (3).
***
Hai thập niên vừa qua, sau khi liên tục nghe các viên chức hữu trách lănh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền lải nhải về “tầm nh́n” và được giới thiệu những kế hoạch, quy hoạch với “tầm nh́n” cho vài ba thập niên sắp đến, người Việt đă được thấy những ǵ và từ thực trạng như đă biết, ai tin là sẽ “được thấy” hoặc “bị buộc phải thấy” những thứ ngoài ư muốn. Những cá nhân vạch ra “tầm nh́n” đă nh́n vào đâu và nh́n cho ai?
|
|