Là một trong những tên địa danh lâu đời nhất Việt Nam nhưng không phải ai cũng biết cái tên Sài G̣n có từ khi nào, ư nghĩa ra sao.
Trước khi có tên là thành phố Hồ Chí Minh, địa phương này được gọi là Sài G̣n. Bấy lâu nay, nó vẫn là thành phố lớn nhất Việt Nam, siêu đô thị trong tương lai gần. Hiện tại, nơi này là trung tâm kinh tế, giải trí, văn hóa và giáo dục quan trọng của nước ta.
Tên gọi Sài G̣n in sâu trong tâm trí người Việt bao đời nay. Nhưng nguồn gốc của nó th́ không hẳn ai cũng biết. Trong “Tạp ghi Việt Sử Địa” (tập 3, NXB Trẻ), Nguyễn Đ́nh Đầu cho biết tên gọi Sài G̣n có từ rất sớm, có lẽ ngay từ buổi đầu lưu dân Việt Nam đến đây khẩn hoang. Có thể là vào cuối thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17.

Ông Nguyễn Đ́nh Đầu cho biết thêm: “Hiện mới nhận diện được hai chữ Hán Nôm Sài G̣n, mà Lê Quư Đôn đă ghi trong Phủ biên tạp lục viết năm 1776, kể lại biến cố: Tháng 4 (1672), Nguyễn Dương Lâm chia quân làm hai đạo nhân đánh úp lũy G̣ Bích, chặt đứt bè nổi và xích sắt, tiến thẳng vào thành Nam Vang. Nặc Đài chết, Nặc Thu ra hàng. Tháng 7 rút quân về lập Nặc Thu làm chính quốc vương đóng ở Cao Miên, Nặc Nộn làm Thứ trưởng Quốc vương đóng ở Sài G̣n, hàng năm triều cống" (Lê Qúy Đôn toàn tập, trang 62). "Như vậy, hai chữ Hán Nôm Sài G̣n đă xuất hiện từ 1776 để nói lên cái tên Sài G̣n của một địa phương đă có ít nhất từ năm 1776 đến nay, không hề thay đổi, vẫn giữ nguyên một dạng măi măi”.
Năm 1674, Sài G̣n là tên thành lũy vùng Chợ Lớn ngày nay. Sang cuối thế kỷ 19, Sài G̣n được xem như một thành phố. Năm 1863, thành phố Sài G̣n và hạt Sài G̣n được thành lập. Đến năm 1889, hạt Sài G̣n đổi thành tỉnh Gia Định. Năm 1910, thành phố Sài G̣n rộng hơn 11km2.
Đầu thế kỷ 20, Pháp đă bắt đầu t́m hiểu về nguồn gốc địa danh Sài G̣n. Nhưng điều đó là rất khó bởi ngay người Việt Nam gọi Sài G̣n bấy lâu cũng không biết rơ nó là có từ đâu, ư nghĩa ǵ. Đă hơn 300 năm trôi qua, các thế hệ học giả vẫn chưa thể thống nhất được về nguồn gốc tên gọi Sài G̣n.
Trong nhiều công tŕnh nghiên cứu, tổng hợp lại có 5 cách lư giải tên gọi Sài G̣n. Một là: Thầy G̣n. Hai là: Đê Ngạn, Đề Ngạn, Tây Cống. Ba là Củi G̣n, Cây G̣n, Prey Kor, Cai Ngon. Bốn là Glainagara. Năm là Prey Nokor hay Brai Nagara.
Phân tích sâu một chút, từ “Sài” có nghĩa là “củi”, “G̣n” có nghĩa là “cây bông g̣n”. Dựa vào đó mà quyển “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” của Huỳnh Tịnh Của cho rằng Sài G̣n có nghĩa là “củi g̣n”. Nhưng theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sẻn, khi người Hoa rời Cù lao phố (Biên Ḥa) vào năm 1773, đến vùng Chợ Lớn ngày nay, họ thấy đây là nơi ăn nên làm ra nên muốn phát triển bền vững. V́ thế người Hoa đă đắp thêm bờ kênh kiên cố, gọi vùng này là “Tai-ngon” hay “Tin-Gan”, theo nghĩa Hán Việt là Đề Ngạn. Phát âm theo tiếng Quảng Đông, Đề Ngạn nghe thành “Thầy Ngồn” hay “Th́ Ng̣n”. Đó chính là âm để gọi vùng Chợ Lớn ngày ấy. Như vậy, âm “Sài G̣n” là từ “Thầy Ngồn”, “Th́ Ng̣n” mà ra.
VietBF@ sưu tập