Bài viết này sẽ ngắn gọn tổng hợp một số dữ kiện về kinh tế, nhưng để nói về vụ khủng hoảng chính trị tại Việt Nam.
Sau cả chục năm gần như mỗi ngày có mặt trên trang nhất của thời sự quốc tế, v́ một cuộc chiến có sự tham dự của Hoa Kỳ, Việt Nam đă trôi vào lăng quên đến hai chục năm, từ 1975 đến 1995. Năm 1995 là khi Hà Nội tái lập bang giao với Hoa Kỳ. Đấy cũng là khi Việt Nam thật sự đổi mới kinh tế sau những dọ dẫm và cố gắng nửa vời. Nh́n lại th́ 10 năm đầu sau chiến tranh là 10 năm lăng phí và khủng hoảng do sự hoang tưởng của ư thức hệ nên lănh đạo Hà Nội mới phải cải cách về kinh tế mà chưa biết thế nào là đúng là sai. Hai chục năm sau th́ mới khác, từ 1995.
Việc Việt Nam kư kết Hiệp định Thương mại Song phương với Hoa Kỳ cuối năm 2001 rồi gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO năm 2007 đánh dấu một giai đoạn tăng trưởng ngoạn mục so với quá khứ của Việt Nam. So với các quốc gia khác, đà tăng trưởng khoảng 7% một năm chỉ là sự thường khi kinh tế chuyển hướng theo quy luật thị trường, hăy hỏi người dân Đông Á th́ biết. Nhưng cũng từ năm 2007, Việt Nam bắt đầu trôi vào giông băo.
Và tuần qua, nếu thời sự quốc tế lại nhắc đến Việt Nam th́ chẳng là về thành tích kinh tế mà v́ một vụ khủng hoảng chính trị. Đó là việc bắt giữ một đại gia nhiều thế lực…
Năm 1995 là khi tổng sản lượng Việt Nam vượt qua dấu mốc đáng nhớ là 20 tỷ Mỹ kim một năm, lên gấp đôi vào năm 2003, rồi gấp đôi tức là 80 tỷ vào năm 2007, và đạt mức trăm tỷ vào năm 2009. Hiện nay, tổng sản lượng xứ này ở gần 130 tỷ đô la, chia cho dân số là 90 triệu th́ người dân thật ra vẫn c̣n thuộc loại nghèo. Nhưng đà tăng vọt từ hai chục tỷ lên gấp sáu trong khoảng thời gian từ 1995 đến nay là điều đáng mừng. Sau quá nhiều hoạn nạn v́ chiến tranh và cách mạng, người dân xứng đáng được hưởng một cuộc sống khác.
Khi hỏi các kinh tế gia, họ cho biết là từ 1996 đến năm 2000, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trung b́nh là 6.9% một năm, tức là mỗi năm lại sản xuất thêm được một lượng sản vật bằng 6.9% của năm trước. Qua giai đoạn 2001-2005 th́ đà tăng trưởng c̣n lên tới 7.5% một năm với viện trợ và đầu tư nước ngoài được ồ ạt trút vào trong sự hồ hởi chung. Đấy cũng là một đ̣n bẩy đă tạo nên sức bật huy hoàng này.
Nhưng ngẫm lại th́ Việt Nam có hy vọng khởi phát tương tự Đài Loan hay Nam Hàn nửa thế kỷ về trước. Qua giai đoạn 2006-2010 th́ mức bột phát ấy đă khựng, c̣n khoảng 7.1% một năm và tới năm 2011 th́ chỉ c̣n 5.9%. T́nh h́nh năm nay sẽ là đáng ngại, chỉ ở khoảng 4.3-4.5% mà thôi.
Câu hỏi nhiều người muốn biết là v́ sao Việt Nam đă ôm viễn ảnh rồng cọp kinh tế rồi lại như kỳ nhông cắc ké? Câu trả lời đơn giản là “kinh tế cũng là chính trị”.
Thật ra, lănh đạo Việt Nam không phát minh ra cây đũa thần kinh tế để thay thế chủ nghĩa Mác-Lênin đă phá sản. Việt Nam chỉ áp dụng chiến lược Đông Á như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn rồi Trung Quốc, là lấy xuất cảng làm đầu máy tăng trưởng.
Dù là một quốc gia có nhiều tài nguyên, ít ra là hơn ba nước Đông Á dẫn đầu nói trên, Việt Nam vẫn chủ yếu nhập cảng nguyên nhiên vật liệu, tái chế biến với một số trị giá gia tăng để bán ra ngoài. Như vậy, nền kinh tế này chỉ làm gia công và nhập cảng vẫn là chủ yếu, thường xuyên. Nhưng lại tăng vọt trong năm năm gọi là ngoạn mục nhất, từ 2006, nên hàng năm vẫn bị nhập siêu, nhập nhiều hơn xuất, trung b́nh mỗi tháng một tỷ đô la.
Muốn kinh tế tăng trưởng, người ta phải tiết kiệm tiêu thụ mà dùng tài nguyên đó đầu tư cho sản xuất với hy vọng tạo thêm tài nguyên của cải cho sau này. Việt Nam phải đầu tư rất nhiều để có mức tăng trưởng ngoạn mục đă qua. Từ khoảng 35% tổng sản lượng trong các năm 1996-2000, tỷ lệ đầu tư của Việt Nam đă vượt 43% trong các năm 2006-2010. Nếu nhớ lại thành tích vừa tŕnh bày ở trên, khi Việt Nam phải đầu tư nhiều nhất th́ cũng là lúc đà tăng trưởng giảm sút.
Nghĩa là gắng sức đầu tư mà kém hiệu năng, tức là một vấn đề về chính sách.
Các sinh viên kinh tế nhập môn đều biết đến tỷ số ICOR: phải đầu tư cỡ nào để gia tăng được một đơn vị sản xuất? Các nước Đông Á đầu tư ba phần th́ ăn được một, Việt Nam phải mất gấp đôi, với tỷ số ICOR là 6.
Người ta có thể t́m lư do châm chước là vụ tổng suy trầm kinh tế toàn cầu trong các năm 2008-2009. Nhưng lư do chính sách ở đây là tín dụng. So với năm 2000 th́ lượng tín dụng đă tăng gần 14 lần vào năm 2010 với kết quả là nâng gấp đôi sản lượng trong 10 năm đó. Xin hăy nhớ đến tỷ số 14/2 như một cách tính nhẩm về sự phi lư tại Việt Nam.
Thật ra, lư do chính sách ở đây chỉ là chính trị.
V́ đấy là lúc mà các đại gia ngân hàng tung hoành. Họ có thể vay tiền mua đất, chơi stock và sát nhập công ty để bành trướng thế lực như trong một bàn cờ Monopoly của trẻ nít. Nền kinh tế có năng suất kém v́ phải đầu tư nhiều, với hiệu năng quá thấp, lại sản sinh ra một thành phần thiểu số cực kỳ giàu có, họ c̣n trơ trẽn phô trương sự giàu có này như những tấm gương thành công! Thế hệ trẻ mà nh́n vào đó như mẫu mực th́ xă hội lâm nguy, là điều đă xảy ra. Sa đọa xă hội đă bùng nổ.
Ngày nay, mọi người đều thấy các “trung tâm sản nhập” là tập đoàn kinh tế nhà nước kiểu Vina, như Vinashin hay Vinalines. Sản nhập v́ thu vào một nhập lượng cực lớn để cho ra một suất lượng thấp hơn. Phần sai biệt mà kế toán gọi là lỗ lă th́ chảy vào trong túi một thiểu số. Ở ṿng ngoài là các đại gia có quan hệ với đảng viên cán bộ cao cấp để mở ra thị trường “tư doanh nhập nhằng” và kiếm tiền vô tội vạ. Tư doanh nhập nhằng v́ chỉ là của tư nhân trên danh nghĩa, về thực chất th́ đấy là mạng lưới kinh doanh của lănh đạo.
Việt Nam đă định chế hóa sự tham ô qua chính sách quản lư quái gở đó.
Khi người dân công phẫn về nạn cướp đất của đám cường hào ác bá và bất măn về t́nh trạng tham nhũng tràn lan, lănh đạo bắt đầu nói đến chỉnh đảng và giải trừ tham nhũng. Với kết quả là hai hệ thống truy lùng tham nhũng song hành – của đảng và của nhà nước, do viên thủ tướng vẫn đ̣i lănh đạo. Khi những người tham ô nhất nước mà cầm đầu việc diệt trừ tham nhũng trong hàng ngũ bên kia th́ người ta biết kết quả sẽ ra sao.
Việt Nam đă đạt năng suất tham ô tới hạng siêu phàm nên đang lâm vào khủng hoảng chính trị.
Chi tiết h́nh sự hữu duyên là kẻ bị bắt có khi đang được bảo vệ để khỏi bị phe phái của chính anh ta “tự tử”, hoặc lặng lẽ thủ tiêu để khỏi thành thật khai báo nhiều quá!
Nhưng c̣n đời sống kinh tế của người dân? Xin hăy nh́n lên núi nợ khó đ̣i và sẽ mất của hệ thống ngân hàng. Nợ thối là bao nhiêu, bao giờ sẽ ụp xuống đầu, không ai biết! Hoặc liếc qua chuyện doanh nghiệp phá sản, sống chết ra sao và bao nhiêu c̣n ngáp ngáp, cũng chẳng ai biết!
Cuộc khảo sát hồi Tháng 6 vừa qua của tổng cục thống kê có cho thấy một phần của sự quái đản ấy. Có 9,331 doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và có vốn nước ngoài được phỏng vấn về t́nh h́nh kinh doanh trong 15 tháng trước, tính đến trung tuần tháng 5 vừa qua. Kết quả là 8.4% trong số này đă phá sản hay âm thầm đóng cửa. Bị thiệt hại nhất là tư doanh với tỷ lệ sập tiệm là hơn 9%. Lư do nghiêm trọng nhất là bị lỗ v́ kém năng suất, thiếu vốn kinh doanh và không thể cạnh tranh nổi! Đấy chỉ là một “dân số mẫu” của thống kê.
Thực tế th́ trong 623 ngàn doanh nghiệp có khai báo vào cuối năm 2011, có hơn 200 ngàn cơ sở đă tiêu vong. C̣n lại, “chết lâm sàng” như người ta nói th́ chẳng ai rơ là có bao nhiêu. Phải chăng “chết lâm sàng” là… bệnh hay lây và đă lên tới năo bộ của đảng?
Theo Người Việt