Dân số chính là vốn quý của một quốc gia. Trong thời đại trọng kim tiền như ngày nay, đi đến đâu người ta cũng chỉ nhắc đến tài chính, kinh tế. Các quốc gia cũng trao đổi giao dịch với nhau dựa trên lợi ích vật chất, kinh tế là nhiều. Nhưng ai là tác giả thực sự của những con số thống kê đầy ấn tượng về mức tăng trưởng kinh tế mỗi năm ấy?
Sẽ là ai nếu không phải là người dân, nguồn nhân công đang ra sức tạo ra sản phẩm mỗi ngày qua bàn tay và khối óc của chính mình. Bởi vậy mới nói, dân số chính là vốn quý nhất của một quốc gia. Nếu không có người dân, chẳng một chính thể nào tồn tại được, nếu không có người dân cũng chẳng có bất cứ một nền văn minh nào trong quá khứ. Nhưng mọi chuyện sẽ ra sao nếu dân số của một quốc gia cứ dần dần bị teo tóp đi rồi biến mất đi.
Giới khoa học đã từng dự báo về sự bùng nổ dân số trong đó nhân loại sẽ gia tăng liên tục cho đến khi đạt tới con số 12,3 tỷ vào năm 2100 mà không hề bị chững lại. Nhưng cho đến năm 2017, các khoa học gia của Viện Đo lường và Đánh giá Sức khỏe (IHME) và Đại học ở Washington, Hoa Kỳ đã dự báo rằng, từ năm 2017 cho đến năm 2064, dân số sẽ liên tục tăng từ mốc 7,8 tỷ người lên mốc 9,7 tỷ, nhưng sau đó, dân số thế giới sẽ bị chững lại trước khi rơi về mức 8,8 tỷ người ở cuối thập niên đó.
Các dự báo trong năm 2022 của Liên Hiệp Quốc cũng cho thấy, dân số có thể tăng lên khoảng 8,5 tỷ người vào năm 2030, đạt đến 9,7 tỷ người năm 2050. Dân số có thể lập đỉnh cao vào những năm 2080, lên đến khoảng 10,4 tỷ người và sẽ duy trì ở mức độ này cho đến năm 2100. Còn trong năm 2023, theo một nghiên cứu do tổ chức bất vụ lợi
The Club of Rome cho công bố, dân số thế giới đang là 7,96 tỷ người, sẽ đạt đỉnh cao là 8,6 tỷ vào khoảng năm 2050, và trước khi thế kỷ 21 kết thúc, dân số sẽ giảm xuống gần 2 tỷ người.
Những con số dự báo này quả là không thống nhất và liên tục thay đổi, cho thấy dự báo cũng chỉ là dự báo, nhất là dân số không phải là một điều dễ dự báo cũng như khoa học chắc hẳn không phải Đấng toàn năng để con người có thể hoàn toàn dựa dẫm vào. Ấy vậy mà, dựa trên những dự báo kiểu này, duy nhất có một quốc gia đã thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình một cách hà khắc, đó chính là TQ đại lục.
Cấm đẻ vì tin vào dự báo dân số của một khoa học gia… nghiên cứu về hỏa tiển
Hơn 40 năm trước, một khoa học gia về chế tạo hỏa tiển của TQ đã áp dụng mô hình toán học dùng để tính toán quỹ đạo hỏa tiển vào việc dự đoán mức tăng trưởng dân số, và ĐCSTQ đã ra quyết sách cho thực thi
"chính sách chỉ một con" dựa trên mô hình
"quái đản" này. Người này có tên là Tống Kiện (Song Jian), là một trong những chuyên gia khoa học nổi tiếng của TQ chuyên nghiên cứu về vệ tinh và hỏa tiển.
Theo The Wall Street Journal, hồi năm 1979, Tống Kiện đã đệ trình lên ĐCSTQ bản báo cáo về việc cho áp dụng các mô hình toán học vào tỷ lệ sinh sản. Trước đó, ông này và một nhóm chuyên gia đã tính toán ra mức độ sinh sản khác nhau sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến dân số TQ. Ông Tống chỉ ra trong báo cáo rằng, dựa trên tỷ lệ một phụ nữ sinh 3 con, dân số Trung Quốc sẽ đạt 4,26 tỷ vào năm 2080.
Có vẻ như dân số TQ, theo dự báo của ông, cũng sẽ bay vụt lên và dễ đoán như quỹ đạo hỏa tiển vậy.
Thực tế thì, mô hình dự báo của ông Tống Kiện có khá nhiều khiếm khuyết, có thể tạm liệt kê một vài yếu tố như sau. Tờ The Wall Street Journal cho biết, một yếu tố không được xem xét trong toán học dân số của ông là hành vi văn hóa của con người. Đó là tâm lý một con lâu dài do ảnh hưởng của các chính sách tuyên truyền và cưỡng chế của chế độ CS. Nếu một cặp vợ chồng chỉ có thể sinh một đứa con thì họ muốn có con trai hơn. Và sự mất cân bằng về nam nữ cũng ảnh hưởng đến mức sinh đẻ và quy mô dân số.
Thứ hai là không tính đến các vấn đề về kinh tế, chẳng hạn như những cải cách của ông Đặng Tiểu Bình đã gây ra tình trạng di cư ồ ạt đến các thành phố, điều này còn làm giảm tỷ lệ sinh nhiều hơn so với sự tưởng tượng.
Thứ ba là những biến cố hay tai họa không thể tính trước. Chẳng hạn như mô hình của ông liệu có dự báo được cái chết của nhiều triệu người TQ do dịch SARS hồi năm 2003, và nhất là trong đại dịch COVID bắt đầu từ đầu năm 2020 cho đến nay chưa chấm dứt ở TQ hay không? Những điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến quy mô dân số.
Bà Susan Greenhalgh, chuyên gia về nhân chủng học tại Đại học Harvard, đã viết một cuốn sách về
"chính sách một con" này. Bà kể rằng, ông Tống Kiện cho rằng tốc độ tăng trưởng dân số nhanh chóng sẽ cản trở TQ trở thành một quốc gia hiện đại. Bà viết:
"Ông ấy đã sử dụng những câu chuyện đáng sợ về một cuộc khủng hoảng nhân khẩu/kinh tế/sinh thái sắp xảy ra để thuyết phục mọi người cho giảm dân số".
Vào ngày 25/9/1980, D(CSTQ ra chỉ thị các đảng viên phải hạn chế quy mô gia đình và chỉ sinh một con.
"Chính sách một con" bắt đầu từ đó và được duy trì trong suốt 35 năm qua. Khác với sự suy giảm tỷ lệ tăng dân số ở các quốc gia Á Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc hay các quốc gia văn minh ở phương Tây như Ý, Đức… là không có vai trò cưỡng bức của chính phủ. Các vấn đề về dân số ở TQ hiện nay đều do
"chính sách một con" đem lại, chính quyền đã cấm sinh thêm con thứ hai, và nay khi dân số bị suy giảm, liệu ĐCSTQ có cấm việc mỗi cặp vợ chồng sinh ít hơn 2 con hay không?
Dựa vào đâu để bắt đẻ và bắt không cho đẻ?
Xưa nay, dù là xã hội truyền thống Trung Hoa hay là kể cả những quốc gia theo chủ nghĩa cực đoan như phát xít, thì chính phủ của họ cũng không can thiệp đến đời sống riêng tư của dân chúng, đặc biệt là vấn đề liên quan đến việci sinh đẻ. Trong
"Kinh Thi" có câu:
"Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc", tạm dịch là
"Trời sinh bách tính, vạn vật đều nằm trong nguyên tắc", có thể hiểu là ai được sinh ra là được Trời an bài rồi, số lượng dân số tự nó đã có cơ chế tự điều tiết.
Nhưng chính quyền Bắc Kinh thì nhất định phải ra tay can thiệp, vì đây là chế độ chuyên chế mọi thứ, bao gồm cả bộ phận sinh đẻ của phụ nữ. Muốn lý giải được điều ấy, thì chắc chắn cần đến sự giải trình trong lịch sử và tìm hiểu cơ sở lý luận của ĐCSTQ đối với vấn đề này.
Năm 1956, báo cáo chính trị trong Đại hội lần thứ 8 của ĐCSTQ đã nêu ra chủ trương hạn chế sinh sản, bởi vì quan điểm của Trung Nam Hải là không có gì mà không thể quản, tức là cái gì cũng phải đưa vào trong kế hoạch của đảng. Ngày 27 tháng 2 năm 1957, trong Hội nghị Quốc vụ tối cao, Mao Trạch Đông có nói:
"Với vấn đề sản xuất trong nhà máy, sản xuất vải, sản xuất bàn ghế, sản xuất gang thép, đều có kế hoạch, còn đối với việc sinh sản của bản thân nhân loại thì lại không có kế hoạch, đó chính là chủ nghĩa vô chính phủ. Nhân loại cần phải khống chế bản thân mình, phải đạt được việc tăng trưởng có kế hoạch, đôi khi còn có thể khiến cho nó có thể gia tăng thêm một chút, đôi khi có thể cho dừng lại một chút".
Từ góc độ của lý thuyết Duy vật như vậy thì phải kiểm soát khắt khe cái gì mà không là sản xuất ra được, vậy thì sinh con cũng phải đưa vào kế hoạch để không chế. Sau khi cuộc vận động Đại Nhảy vọt năm 1957 bị thất bại, Mao và ĐCSTQ đã thay đổi luận điệu,
"nhiều người là việc tốt" đã trở thành tư tưởng chỉ đạo.
![](https://www.trithucmoi.org/content/images/size/w2000/2024/08/vi-sao-dan-so-trung-quoc-dang-ngay-cang-bien-mat-1.jpg)
(Minh họa)
Khẩu hiệu nay đã được đổi thành:
"Nhiều người sức mạnh lớn", "Con người không chỉ có một cái miệng, mà còn có một đôi tay, có thể sáng tạo ra thế giới", người phụ nữ nào có 10 đứa con trở lên ban tặng danh hiệu
"bà mẹ vinh quang". Lúc đó, nếu ai dám nói ngược lại thì bị gán là
"Luận điệu hoang đường của giai cấp tư sản" và là "công kích điên cuồng của cánh hữu", đã bị "vạch trần, phê phán triệt để". Nhân vật Mã Dần Sơ, hiệu trưởng trường đại học Bắc Kinh có thể là một nhân chứng cho việc này.
Kết quả là dân số của TQ trong những năm 60, 70 của thế kỷ trước đã tăng trưởng chóng mặt. Và sau những nghiên cứu và dự báo dân số đã kể trên, ngày 6 tháng 3 năm 1981, Bắc Kinh thành lập Ủy ban Kế hoạch sinh sản, yêu cầu cưỡng chế sinh ít con, kế hoạch sinh sản trở thành quốc sách cơ bản của ĐCSTQ, không phải là nhân dân tự nguyện, nhà nước hỗ trợ như ở thế giới bên ngoài, mà đưa thẳng vào Hiến pháp.
Thế là, từ bắt đẻ lại thành bắt không cho đẻ.
Luật đã có rồi, cho nên khi đem ra chế tài thì càng đáng sợ hơn. Vượt quá tỷ lệ sinh cho phép, thai nhi còn trong bụng sẽ bị cho phá, nếu sinh ra sẽ bị giết chết không thương tiếc. Khẩu hiệu dân số bây giờ đã được đổi thành:
- "Thà nát nhà, cũng không để vong quốc";
- "Uống thuốc trừ sâu tự sát sẽ không cản, treo cổ thì đưa dây thừng";
- "Một người sinh đẻ vượt mức, toàn thôn phải bị triệt sản";
- "Thà máu chảy thành sông, cũng không cho sinh quá thêm một đứa trẻ";
- "Thà xây thêm 10 phần mộ cũng không thêm một con người!"
Rõ là, quốc kế dân sinh như giấy nháp, sinh mạng người dân như cỏ rác.
Theo số liệu từ Bộ Y tế được truyền thông nhà nước Bắc Kinh cho trích dẫn, đại lục đã cho thực hiện 336 triệu ca phá thai từ năm 1971 cho đến năm 2013. Nhân vật hoạt động nhân quyền nổi tiếng người TQ Trần Quang Thành (Chen Guancheng) đã thực hiện các cuộc phỏng vấn với hàng trăm phụ nữ bị ảnh hưởng bởi luật kế hoạch hóa gia đình ở Lâm Nghi, một thành phố ở tỉnh Sơn Đông, miền nam TQ. Dựa trên các đoạn ghi âm phỏng vấn này, ông trao đổi với hãng tin NPR rằng: Trong một số trường hợp phụ nữ nạo phá thai muộn,
"Các bác sĩ sẽ tiêm chất độc trực tiếp vào hộp sọ của đứa trẻ để giết chết nó", "Các bác sĩ khác sẽ tiêm thuốc ép cho sinh non. Nhưng một số đứa trẻ vẫn còn sống khi chúng được sinh ra và bắt đầu cất tiếng khóc chào đời. Các bác sĩ đã bóp cổ hoặc cho dìm chết những đứa trẻ đó".
Một số gia đình phải chứng kiến con cái của họ bị chính quyền bắt đi, hoặc bị yêu cầu nộp phạt rất nặng, cao đến bốn hoặc sáu lần thu nhập hàng năm của gia đình vì đã vi phạm luật kế hoạch hóa gia đình. Ngoài ra, tiền phạt sẽ cao hơn đối với đứa con thứ hai hoặc tiếp theo được sinh ra bên ngoài giá thú. Câu chuyện giết đi giết lại đứa trẻ sơ sinh của Hoàng Cầu Sinh, một nông dân ở Vũ Hán, được giới truyền thông TQ đưa lên hồi năm 2006 thật quá sức ám ảnh. Những câu chuyện tương tự nhiều không kể xiết, bất cứ ai nếu có quan tâm có thể tự tìm hiểu lấy.
Hậu quả của chính sách kế hoạch hóa gia đình này là cơ cấu dân số nhanh chóng bị già đi, số người về hưu không ngừng tăng lên, còn số người trong độ tuổi lao động ngày càng giảm đi, hệ thống lương hưu xã hội luôn thiếu hụt nghiêm trọng phải đối mặt với áp lực bị sụp đổ. Hiện nay một cặp vợ chồng phải phụng dưỡng 4 người già, đồng thời còn phải nuôi một đứa con. Đứa con này được chiều chuộng quá mức dễ sinh hư hỏng, nó cũng khó tìm vợ do tâm lý trọng nam khinh nữ, và không có gì bảo đảm là trong tương lai gần xa, nó sẽ cáng đáng được việc phụng dưỡng cha mẹ già, trong khi quốc gia không có cơ chế nào để cứu trợ.
Số liệu từ Cục Thống kê Quốc gia TQ, cho công bố vào ngày 17/1/24, cho thấy chỉ có 9,02 triệu trẻ sơ sinh được sinh ra vào năm ngoái, năm thứ 7 liên tiếp con số đó đã sụt giảm đi. Nó đã chạm mức thấp nhất kể từ khi ĐCSTQ nắm quyền kiểm soát đại lục này vào năm 1949.
Trung Quốc thấy mình chưa giàu đã già. Đã vậy, thì lại buộc dân phải đẻ thôi.
Trung Nam Hải đã áp dụng chính sách cho phép các gia đình sinh 3 con vào năm 2021. Chính quyền địa phương trên toàn quốc cũng đưa ra các biện pháp khuyến khích các cặp vợ chồng nên sinh con. Các lựa chọn bao gồm việc khấu trừ thuế, trợ cấp nhà ở và giáo dục miễn phí tại các trường công lập. Năm 2022, trang web chính thức của Hiệp hội Kế hoạch hóa Gia đình TQ đã cho công bố
"Những điểm chính trong công tác của Hiệp hội Kế hoạch hóa Gia đình TQ năm 2022", yêu cầu cho triển khai một hành động đặc biệt để can thiệp việc phá thai ở những người chưa kết hôn nhằm giảm tình trạng mang thai ngoài ý muốn và việc phá thai tràn lan ở giới thanh thiếu niên.
Từ cấm mang thai, thoắt biến thành cấm phá thai.
Một số nơi ở TQ, cũng giống như ở Rumani thời Ceausescu, thậm chí xuất hiện cả
"cảnh sát kinh nguyệt", tức là những nhân viên nhà nước theo dõi kinh nguyệt của phụ nữ. Chẳng hạn, khi bạn đang họp ở công ty thì có người gọi điện đến hỏi,
"Tháng này có kinh chưa?"
Nhưng những chính sách này chẳng có mấy tác dụng gì. Dân số TQ tiếp tục suy giảm, số trẻ sơ sinh ngày càng ít đi.
Ông Steven Mosher, chủ tịch Viện Nghiên cứu Dân số Mỹ bày tỏ quan điểm:
"Trong 30, 40 năm qua, họ đã được dạy rằng trẻ em là gánh nặng chứ không phải phước lành; họ đã được nói rằng mọi người nên sinh ít con hơn vì lợi ích của đất nước. Giờ đây, đột nhiên, bạn không thể lật ngược mọi chuyện và nói rằng hãy bắt đầu có con".
Cơ sự như thế này, lại phải bắt dân phải đẻ quyết liệt hơn nữa.
Giáo sư tại Đại học Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến, TQ là ông Triệu Yên Tinh (Zhao Yanjing) cho rằng nhằm kích thích khả năng sinh sản, nên trừng phạt những người không chịu sinh con và khen thưởng những người có con. Điều này cho thấy một khi ở trong văn hóa do ĐCSTQ tạo ra, thì giải pháp chỉ có biết thưởng và phạt, kể cả giới học giả cũng không có ý gì tốt đẹp hơn. Và có thể dự đoán rằng, nhà nước TQ sắp tới sẽ lại bắt dân đẻ, đây cũng là dự đoán của ngoại giới và của chính người dân TQ.
Đó là tóm tắt toàn cảnh của công trình kế hoạch hóa gia đình của chính quyền Trung Nam Hải từ hơn nửa thế kỷ trước cho đến nay.
Nguyên nhân gì khiến người dân TQ hiện nay không muốn đẻ con?
Nguyên nhân thứ nhất là chi phí nuôi một đứa trẻ TQ hiện nay quá cao.
Hôm 21/2, tổ chức tư vấn
"Nghiên cứu Dân số Yuwa" của TQ đã cho công bố
"Báo cáo về chi phí sinh con TQ phiên bản 2024". Đây là tổ chức chuyên nghiên cứu về dân số TQ và các vấn đề chính sách công cộng có liên quan.
Báo cáo này cho biết, chi phí sinh và nuôi con ở TQ cao hơn cả Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu,
"gần như cao nhất thế giới".(?) Chi phí trung bình để nuôi một đứa trẻ từ lúc sinh ra cho đến khi tốt nghiệp đại học ở đại lục là khoảng 680,000 nhân dân tệ (khoảng 100,000 USD). Theo kết quả khảo sát mẫu năm 2017 của bộ phận Y tế và Kế hoạch hóa Gia đình Quốc gia TQ, thì lý do hàng đầu khiến cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không có kế hoạch sinh thêm là gánh nặng tài chính (chiếm 77,4% số người được khảo sát).
Nguyên nhân thứ hai, là tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc rất nan giải.
Cục Thống kê Quốc gia TQ cũng cho công bố, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng Năm và tháng Sáu năm 2023 của thanh niên từ 16-24 tuổi lần lượt là 20,8% và 21,3%. Đây lại là một kỷ lục mới kể từ khi số liệu này bắt đầu được thống kê vào năm 2018. Sang đến đầu năm 2024, con số này tuy có giảm, nhưng dư luận nói chung thì không tin vào cách tính toán của Bắc Kinh vì mấy lý dosau:
- Một là, mỗi tuần làm việc 1 tiếng cũng được tính là có việc làm.
- Hai là, tỷ lệ thất nghiệp không bao gồm dân số nông thôn, mà tình hình việc làm ở nông thôn thậm chí còn tồi tệ hơn.
- Ba là, 200 triệu người làm việc linh hoạt cũng được tính là có việc làm, trong khi làm việc linh hoạt có nghĩa là họ không có việc làm chính thức.
- Bốn là, "lực lượng phi lao động" không được tính vào phạm vi thống kê thất nghiệp. Lực lượng "phi lao động" là những người nằm thẳng, người làm công toàn thời gian, và con ông cháu cha không cần làm mà vẫn có ăn.
Vì vậy, dư luận cho rằng, con số thất nghiệp trong thực tế có thể đến 40% hoặc cao hơn nữa.
Khi sinh kế bị đe dọa, nghề nghiệp không ổn định, thì tâm lý nặng nề, tiền bạc thiếu thốn, và người ta cũng không muốn sinh nở làm gì.
Nguyên nhân thứ ba, là do chênh lệch nam nữ quá lớn và tâm lý xã hội phức tạp khiến việc dựng vợ gả chồng khó khăn. Như hiện tượng có nhiều nam thanh niên phải chấp nhận lấy phụ nữ lớn tuổi, hoặc bỏ tiến lấy vợ ngoại quốc; trong khi có những cô gái trẻ chẳng muốn lấy chồng, hoặc yêu người số AI. Thậm chí ở nông thôn TQ ngày nay, thanh niên cũng chẳng thể nào lập gia đình. Theo số liệu từ
"Niên giám thống kê TQ 2021", tỷ số giới tính ở nông thôn TQ lúc bấy giờ là 107,91, tức là cứ 100 nữ thì có 107,91 nam. Sự mất cân đối này ở Thượng Hải và Bắc Kinh là nghiêm trọng nhất, lần lượt là 130,93 và 120,21.
Nguyên nhân thứ tư, là dân tình bạc nhược, buông xuôi, nằm ngửa. Căn bệnh nằm ngửa đã phát ra từ vài năm trước. Năm 2023, đã xuất hiện phong trào
"Thanh niên 4 không" (không hẹn hò, không kết hôn, không mua nhà, không sinh con). Hiện giờ năm 2024 hiện tượng này đã phát sinh trở thành
"Thanh niên 10 không" (không hiến máu, không quyên tiền, không kết hôn, không sinh con, không mua nhà, không mua vé số, không đầu cơ cổ phiếu, không mua quỹ, không giúp đỡ người già bị ngã, không xúc động)
Thanh niên nằm ngửa chán chường, tự coi mình là thế hệ người TQ cuối cùng, không muốn sinh thêm con cái để tiếp tục kiếp người TQ khổ ải.
Tất nhiên, danh sách này còn dài, nhưng chỉ chừng ấy nguyên nhân cũng đã khiến giới hoạch định chính sách thấy đau đầu. Nếu Hàn Quốc, Nhật Bản và các quốc gia văn minh khác coi xu hướng suy giảm dân số là một vấn đề nan giải thì TQ lại càng bó tay hết cách, nhất là khi não trạng của D(CSTQ vốn chỉ giới hạn ở giải pháp cưỡng chế bắt ép mà thôi.(
*vì bận lo toan vơ vét của cải cho cá nhân và bè phái)
Vấn đề dân số là chủ đề mà có rất nhiều các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt, chẳng hạn các quốc gia Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Nhật Bản cũng đang tìm cách giải bài toán suy giảm dân số, và đó là nhu cầu bình thường, không có gì đáng để bàn cãi hoặc phản đối. Điều đáng phản đối là cách thức chính phủ ra sức cưỡng chế thô bạo mà duy nhất có TQ đại lục đang cho thực hiện. Cưỡng ép con người phải sinh đẻ hoặc không sinh đẻ thể hiện văn hóa Đấu tranh: đấu người và đấu Trời; giết hại sinh mệnh trẻ thơ, xâm phạm sức khỏe và tinh thần của sản phụ là văn hóa Ác, là tội ác phản nhân loại, hoàn toàn trái ngược với truyền thống bảo vệ cho phụ nữ và trẻ thơ của các quốc gia văn minh.
Thực ra, đối với một chính phủ, thông thường sẽ có rất nhiều cách để điều tiết dân số. Nhân khẩu học và tài liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc đã cho thấy rằng những nơi có cơ chế an sinh xã hội hoàn thiện và trình độ dân trí của người dân cao thì tỷ lệ sinh sản sẽ tự nhiên sẽ giảm bớt. Căn cứ theo con số thống kê của TQ năm 1986, chỉ cần phụ nữ được giáo dục đến bậc trung học cơ sở thì tỷ lệ sinh sản sẽ giảm đến 2.13, từ đó khiến cho dân số đạt được mức cân bằng, những người phụ nữ được giáo dục tới hết trung học và đại học thì tỷ lệ sinh sẽ giảm thêm đến 1.82 và 1.11. Nếu căn cứ theo con số thống kê hiện nay thì còn giảm xuống thêm một bước nữa. Hàn Quốc, Nhật Bản là xã hội văn minh tiến bộ, phụ nữ có học vấn cao và tỷ lệ sinh nở đang giảm, là một bằng chứng thực tế.
Còn nếu muốn tăng tỷ lệ sinh con, thì cần phải giải tỏa được tâm lý của người dân. Chẳng hạn như sự bùng nổ dân số của thế hệ Baby Boomer ở các nước văn minh sau Thế chiến 2 có nguyên nhân chính là vì con người lúc đó có một cảm giác an toàn khi chiến tranh đã chấm dứt, thời kỳ đau khổ đã kết thúc, trước mắt là những năm tháng kiến thiết xây dựng và người ta tin rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Tương tự, nếu muốn tăng tỷ lệ sinh thì TQ phải giảm bớt nạn thất nghiệp, cải thiện phúc lợi an sinh xã hội, tạo điều kiện cho nam nữ yên tâm xây dựng gia đình, biến xã hội TQ thành một nơi an toàn và đáng để sống, v..v.. Chính là như người xưa đã nói,
"an cư thì lạc nghiệp", tự nhiên tỷ lệ sinh sản sẽ tăng lên.
Đằng này, Bắc Kinh suốt hơn 70 năm nắm quyền hành chỉ biết cưỡng chế và trừng phạt, bóc lột và vơ vét của cải đến nỗi đa số dân chúng thấy chán chường chỉ muốn nằm ngửa buông xuôi, một phần đã mất đi sinh mệnh trong tai họa và dịch bệnh, phần khác bất chấp nguy hiểm để tìm đường đào thoát ra nước ngoài… dường như vấn đề tăng dân số hay không nằm ở sự tồn tại hay không của ĐCSTQ, chứ đâu nằm ở dân chúng TQ???
Sưu tầm