Ông được tôn vinh như 1 nhà bác học về ngôn ngữ bậc nhất thời nay, nhiều người phải kinh ngạc khi ông thông thạo 26 thứ tiếng cùng lúc ở tuổi 25.
Trương Vĩnh Kư (1837 – 1898), là nhà bác học, nhà văn, nhà ngoại giao, nhà giáo dục và nhà cải cách ngôn ngữ Việt Nam. Ông được coi là người tiên phong trong việc sử dụng và phổ biến chữ Quốc ngữ, đồng thời có nhiều tác phẩm quư giá về lịch sử, địa lư, văn học, từ điển và dịch thuật. Ông cũng là 1 trong 18 nhà bác học thế giới về ngôn ngữ của thế kỉ 19, được ghi tên vào Bách khoa Tự điển Larousse. Ở tuổi 25, Trương Vĩnh Kư đă thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ư, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin…
Tượng Trương Vĩnh Kư ở một góc công viên Thống Nhấtnh́n ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ởBảo Tàng Mỹ ThuậtTP.HCM).
Thần đồng tự học nhiều hơn ở trường
Trương Vĩnh Kư từ lúc lọt ḷng mẹ (6-12-1837) ở Cái Mơn, xă Vĩnh Thạnh cho đến lúc qua đời (1-9-1898) ở Chợ Quán, Sài G̣n đă trải qua bao cơn sóng gió. Cha của ông là Trương Chánh Thi, một lănh binh của triều Nguyễn mất khi ông c̣n rất nhỏ. Cha mất sớm, nhưng Trương Vĩnh Kư được xem là thần đồng khi 3 tuổi đă thuộc làu Tam Kinh, 4 tuổi ông học viết, 5 tuổi (1842) đă cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo. Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...
Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông c̣n thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Kư đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...
Tượng Trương Vĩnh Kư được đặt tại 1 bảo tàng ở Bến Tre.
Năm 1846, Trương Vĩnh Kư được gửi cho 1 người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Ḥa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) để học tiếng Latin và tiếng Pháp. Sau đó, ông Thừa Ḥa phải đi xa nên nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Kư. Năm Vĩnh Kư 11 tuổi (1848), ông được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia). Tại đây, ông được cùng cùng hơn 20 học sinh khác đến từ nhiều nước khác nhau ở Đông Nam Á. Cũng tại đây, ông đă thông thạo hầu hết các thứ tiếng của các bạn học cùng như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)…
Ngoài việc học từ các bạn, ông c̣n tự học ở sách, từ điển trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Kư đă tự t́m ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng.
Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Kư tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một ḥn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia). Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Kư học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông c̣n học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ư…Ông tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà t́m ra các mẹo luật văn phạm.
Chân dung Trương Vĩnh Kư và 1 bài báo viết về ông.
Cuối những năm 1880, Trương Vĩnh Kư đă xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Năm 1874, Trương Vĩnh Kư đă được thế giới b́nh chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
Ông cũng là người có công trong việc xây dựng và phát triển giáo dục, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Ông là tổ chức, quản lư tờ báo viết chữ Quốc ngữ đầu tiên mang tên là Gia Định báo (1865-1910). Ông cũng là người đề xướng việc thành lập Học viện Đông Dương (École française d'Extrême-Orient) năm 1898. Ông đă viết hơn 100 tác phẩm về lịch sử, địa lư, văn học, từ điển và dịch thuật, bằng nhiều thứ tiếng như tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng La Tinh và tiếng Campuchia.
Ông mất ngày 1/9/1898 tại Sài G̣n, được an táng tại nghĩa trang Thành Đức. Sau này, mộ của ông được chuyển về quê nhà Cái Mơn. Nhiều nơi đă đặt tên theo ông như: Đường Trương Vĩnh Kư ở Sài G̣n, Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Kư ở Sài G̣n, Trường Tiểu học, THCS và THPT Vĩnh Kư ở quận Tân B́nh, TP.HCM, Bảo tàng Trương Vĩnh Kư ở Bến Tre...