
Sáng nào tôi cũng ngang qua ngă ba đường nhỏ cạnh trường tiểu học cũ. Ở đó, ngay sát gốc cột điện, có một gánh xôi nhỏ lụp xụp – không bảng hiệu, không mái che, chỉ có chiếc mẹt tre đặt trên cái bàn gỗ thấp, một nồi xôi nghi ngút khói, và một bà cụ tóc bạc, lưng c̣ng, ngồi trên cái ghế nhựa găy một chân được kê bằng cục gạch đỏ.
Bà tên là bà Sáu, ngoài bảy mươi, giọng run run nhưng vẫn ráng rao đều đặn mỗi sáng:
— Xôi nếp thơm đây… xôi đậu xanh… xôi đậu phộng đây con ơi...
Gánh xôi của bà không đông khách, nhưng đều đặn. Khách là mấy cô lao công, chú bảo vệ, vài em học sinh, hay những người bán vé số ghé ngang. Xôi của bà đầy đặn, rắc muối mè thơm, có hôm thêm lát bánh phồng. Giá năm ngàn, mười ngàn. Chưa bao giờ hơn.
Một lần tôi mua hai gói xôi rồi hỏi đùa:
— Bà Sáu ơi, sao không đổi cái ghế mới đi, ngồi nghiêng vậy dễ té lắm đó!
Bà cười hiền, chậm răi đáp:
— Té mấy lần rồi đó con. Nhưng cái ghế này là của thằng cháu ngoại bà mua. Hồi nó học lớp 4, lấy tiền ĺ x́ mua ghế cho bà “ngồi đỡ nhức lưng”. Từ hôm nó mất, bà ngồi vậy luôn, không đổi được.
Tôi sững người.
Thằng bé ấy – con của con gái bà, mất v́ sốt xuất huyết trong một trận dịch mấy năm trước. Hồi đó bà mới mất chồng, nhà neo người, một ḿnh lo liệu, rồi dựng gánh xôi để sống… và để khỏi phát điên.
— Có bữa đang ngồi bán, bà nh́n cái ghế, tự nhiên bật khóc. Nó nhỏ xíu mà biết lo cho bà. Giờ bà ngồi trên ghế nó, như thể nó c̣n ngồi bên...
Bà nói rồi vẫn đều tay gói xôi, gấp mép cẩn thận như đang gói một điều ǵ thiêng liêng.
Một hôm, trời đổ mưa bất chợt. Tôi vội trú dưới mái hiên gần đó. Từ xa, thấy bà Sáu vẫn ngồi bán. Bất chợt, cái ghế trượt, bà ngă nhào xuống đất, nồi xôi đổ nghiêng một góc.
Tôi hốt hoảng chạy đến, d́u bà dậy. Bà đau chân, nhưng miệng chỉ lẩm bẩm:
— Cái ghế… cái ghế đâu rồi con?
Tôi vội t́m, dựng lại cái ghế. Nó trầy xước thêm, nhưng vẫn c̣n nguyên. Bà thở phào, ôm lấy nó, tay run run gạt nước mưa trên mặt.
Tôi không nói ǵ, chỉ lặng lẽ gom lại đồ, che mưa giúp bà.
Sáng hôm sau, tôi mang đến cho bà một cái ghế nhựa mới – màu giống hệt cái cũ.
Nhưng bà chỉ lắc đầu, cười hiền:
— Để cái mới đó cho ai cần hơn. Cái của bà… tuy găy, nhưng nó c̣n giữ được người thương bên cạnh.
Từ hôm đó, mỗi lần đi ngang qua góc ngă ba, tôi không c̣n chỉ thấy một bà cụ bán xôi. Tôi thấy một người đang giữ ǵn kư ức – bằng cả t́nh thương không điều kiện.
Ngồi trên chiếc ghế nghiêng, giữa gió bụi thành phố, bà vẫn đều tay gói xôi. Như thể mỗi gói là một kỷ vật – gửi đến những người đang sống vội, để nhắc rằng: có những điều, không nên vội quên.
VietBF@ sưu tập