Mục tiêu chi tiêu quốc pḥng táo bạo của NATO đang tạo áp lực lớn lên các đồng minh của Mỹ tại Ấn Độ Dương - Thái B́nh Dương. Liệu Nhật, Hàn, Australia và New Zealand có sẵn sàng đáp ứng?Theo tờ Thời báo Nhật Bản (japantimes.co.jp), hội nghị thượng đỉnh NATO vừa qua đă tạo ra một bước ngoặt lịch sử khi các quốc gia thành viên nhất trí về một mục tiêu chi tiêu quốc pḥng đầy tham vọng, hứa hẹn sẽ định h́nh lại cục diện an ninh toàn cầu. Dù thỏa thuận này được xem là giải pháp nội bộ của châu Âu nhằm đối phó với những thách thức từ cuộc xung đột Nga - Ukraine, nó lại đang thiết lập một tiêu chuẩn mới, có khả năng tạo ra áp lực và kỳ vọng đáng kể lên các đồng minh của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái B́nh Dương, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc ngày càng gay gắt.
Mục tiêu 5% GDP và những con số đầy tham vọng
Tại hội nghị kéo dài hai ngày ở Hà Lan, các nhà lănh đạo NATO đă thông qua một mục tiêu chi tiêu mới: 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2035. Trong đó, 3,5% sẽ dành cho các nhu cầu cốt lơi như quân đội và vũ khí, và 1,5% c̣n lại sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực an ninh phi truyền thống như an ninh mạng và cơ sở hạ tầng. Đây là một bước nhảy vọt đáng kinh ngạc so với mục tiêu 2% hiện tại.
Thậm chí, ngay cả cường quốc quân sự hàng đầu thế giới như Mỹ cũng chỉ chi 3,4% GDP cho quốc pḥng, trong khi Ba Lan là quốc gia hiếm hoi vượt mốc 4%. Điều này cho thấy mục tiêu 5% là một thách thức không hề nhỏ, đ̣i hỏi các thành viên phải có những cam kết và nỗ lực thực sự trong thập kỷ tới.
Theo chuyên gia phân tích James Black từ tổ chức Rand Europe, sự đồng thuận này có được nhờ vào sự "ngoại giao sáng tạo". Thay v́ dùng từ "chúng tôi cam kết", ngôn ngữ trong thỏa thuận được điều chỉnh thành "các đồng minh cam kết", mang lại sự linh hoạt chính trị cho một số quốc gia như Tây Ban Nha, trong khi vẫn đảm bảo mục tiêu chung.
Nhiều nhà phân tích cho rằng thỏa thuận này không chỉ là một cột mốc về tài chính mà c̣n là một đ̣n bẩy chính trị, đặc biệt là nhằm xoa dịu những lo ngại của Mỹ về việc "chia sẻ gánh nặng" không công bằng. Tổng thống Mỹ Donald Trump, người từng chỉ trích mạnh mẽ sự thiếu đóng góp của các đồng minh châu Âu, đă tuyên bố NATO không c̣n "lừa dối" nữa.
Paal Sigurd Hilde, chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Quốc pḥng Na Uy, nhận định hội nghị thượng đỉnh lần này chủ yếu là để "làm hài ḷng Tổng thống Trump đồng thời hạn chế khả năng ông ấy gây ra sự hỗn loạn". Kết quả là, cam kết của Mỹ với liên minh được đảm bảo, mở ra cơ hội để Washington chuyển hướng tập trung chiến lược.
Áp lực lên "Bộ tứ" ở Ấn Độ - Thái B́nh Dương
Mặc dù hội nghị diễn ra ở châu Âu, tác động của nó lại vượt ra ngoài ranh giới Đại Tây Dương. Thỏa thuận này đang thiết lập một "tiêu chuẩn toàn cầu" mới mà Washington gần như chắc chắn sẽ sử dụng để gia tăng áp lực lên các đồng minh ở Ấn Độ Dương - Thái B́nh Dương, hay c̣n gọi là IP4 (bao gồm Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand).
Nate Fischler, nhà phân tích châu Á - Thái B́nh Dương tại tổ chức phân tích địa chính trị và t́nh báo RANE có trụ sở tại Mỹ, khẳng định: "Một tiêu chuẩn cho các đồng minh của Mỹ hiện đă được thiết lập và Washington sẽ muốn IP4 đáp ứng tiêu chuẩn đó".
Tuy nhiên, phản ứng của các quốc gia trong khu vực rất khác nhau. Người phát ngôn chính phủ Nhật Bản Yoshimasa Hayashi cho biết thỏa thuận này là "một bước tiến quan trọng", nhưng cũng tái khẳng định lập trường của Tokyo: "Điều quan trọng trong việc tăng cường năng lực quốc pḥng của Nhật Bản không phải là số tiền chi tiêu mà là bản chất của những năng lực đó".
Dù Nhật Bản và Australia đă có những động thái phản đối, Washington vẫn kiên định với mong muốn các đồng minh khu vực đóng vai tṛ lớn hơn trong việc đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhằm giải phóng nguồn lực để tập trung vào mặt trận Ấn Độ Dương - Thái B́nh Dương.
Dù thỏa thuận chi tiêu của NATO được xem là một bước tiến quan trọng giúp tăng cường khả năng của châu Âu trong quốc pḥng, qua đó cho phép Mỹ chuyển trọng tâm sang khu vực Ấn Độ Dương - Thái B́nh Dương. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo rằng quá tŕnh này sẽ mất nhiều thời gian, v́ châu Âu có thể sẽ hành động chậm với nhiều lư do, bao gồm sự chia rẽ chính trị và sự phụ thuộc ngắn hạn đến trung hạn của họ vào một số công nghệ và năng lực tiên tiến của Mỹ.
Chuyên gia Fischler lưu ư: "Tốc độ thực tế sẽ phụ thuộc vào việc các đồng minh châu Âu có thể nhanh chóng gánh vác thêm gánh nặng răn đe hay không", đồng thời lưu ư rằng Washington vẫn chưa thể rút lui hoàn toàn khỏi chiến trường xuyên Đại Tây Dương. Ông nói thêm rằng bất kỳ sự tăng cường tập trung nào của Mỹ vào Trung Quốc cũng có thể bị hạn chế bởi các nghĩa vụ cạnh tranh và sự đảm bảo rằng các đồng minh trong khu vực cũng như các đối tác tuyến đầu như Philippines sẵn sàng và có khả năng chia sẻ gánh nặng hay không.
Điều này cũng phụ thuộc vào việc liệu Washington có thể duy tŕ sự tập trung vào châu Á và tránh bị phân tâm về mặt chiến lược ở Trung Đông hay những nơi khác hay không.
Chuyên gia Black tại Rand Europe cũng có quan điểm tương tự, cho rằng trong ngắn hạn, việc tăng chi tiêu và năng lực quốc pḥng của châu Âu sẽ không làm thay đổi đáng kể phương tŕnh của các nhà hoạch định quốc pḥng Mỹ. Điều này sẽ cho phép Lầu Năm Góc tiếp tục chuyển trọng tâm sang việc kiềm chế Trung Quốc, đặc biệt là về cách Washington cân nhắc bố trí lực lượng không quân, hải quân và các tài sản có giá trị cao của ḿnh.
Về lâu dài, một trụ cột châu Âu có năng lực và kiên cường hơn sẽ giúp giảm nguy cơ Mỹ bị kéo vào một cuộc đối đầu toàn cầu với nhiều đối thủ cùng lúc. Tuy nhiên, một số chuyên gia lại lập luận rằng việc phân chia trách nhiệm an ninh theo khu vực là chưa tối ưu. Gorana Grgic, nhà nghiên cứu cấp cao tại ETH Zurich, nhấn mạnh: "Mỹ sẽ mạnh hơn nếu khiến các đồng minh của ḿnh hợp tác xuyên khu vực thay v́ theo cách cô lập ở từng khu vực".
|