Vua Thành Thái tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Lân, c̣n có tên là Nguyễn Phúc Chiêu, hoàng đế thứ 10 của triều Nguyễn. Cuộc đời của Ông có nhiều chuyện lạ, nửa hư nửa thực mà dân gian vẫn c̣n lưu truyền.
Dưới đây là một vài chuyện như vậy.
Bị quản thúc trong cảnh khốn khó
Vua Thành Thái là con thứ 7 của vua Dục Đức, thân mẫu là bà Phan Thị Điểu (sau được tôn làm Từ Minh hoàng hậu), vua sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Măo (14/3/1879). Năm lên bốn tuổi, vua cha Dục Đức ở ngôi được 3 ngày th́ bị phế truất và chết v́ đói khát sau mấy tháng ở trong tù.
Đến nǎm được chín tuổi, v́ ông ngoại là Phan Đ́nh B́nh - Thượng thư Bộ Hộ chỉ trích Đồng Khánh, nịnh bợ và thân Pháp, do đó Phan Đ́nh B́nh bị bắt giam rồi bỏ cho chết, trong tai họa này Bửu Lân lại phải cùng mẹ vào kinh đô, chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu thốn.
Nhờ lời "dịch sai" mà được làm vua
Ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tư (tức ngày 28 tháng 1 năm 1889) vua Đồng Khánh lâm bệnh qua đời khi mới ở tuổi 25, con trai là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (sau này là vua Khải Định) khi đó mới 3 tuổi nên không nối ngôi được, hội đồng Cơ mật viện của triều đ́nh Huế không biết chọn ai làm vua bèn cho người sang xin ư kiến của Ṭa khâm sứ Pháp. Viên Khâm sứ Pierre Paul Rheinart gọi ông Diệp Văn Cương đang giữ chức vụ Bí thư kiêm thông dịch viên cho Ṭa Khâm sứ đến lănh trách nhiệm thông dịch.
Chân dung vua Thành Thái (H́nh minh họa)
Diệp Văn Cương, hiệu Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, quê ở An Nhơn (gần G̣ Vấp), Gia Định là một người giỏi chữ Hán và quốc ngữ nên được học bổng du học và đỗ tú tài ở Pháp. Khi về nước ông dạy tại trường Chasseloup Laubat, rồi làm thông ngôn cho toà Khâm sứ Huế và là thầy dạy học cho vua Đồng Khánh. Vợ ông là Công nữ Thiện Niệm, em gái vua Dục Đức.
Một bất ngờ táo bạo của ông khi làm thông dịch đă đóng vai tṛ quyết định trong việc đưa người cháu vợ là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi, trở thành vua Thành Thái.
Tương truyền dưới tác động của vợ, lại có ḷng thương cảm cho số phận hẩm hiu của vua Dục Đức và gia đ́nh vua nên Diệp Văn Cương đă t́m cách cháu ḿnh lên ngôi.
Ông dịch cho Khâm sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác với ư của Cơ mật viện, v́ thế Bửu Lân được chọn lên ngai vàng. Sách Nguyễn Phước Tộc Thế Phả cũng cho biết về chuyện này như sau:
“Cơ mật viện hỏi: "Hiện nay vua Đồng Khánh đă thăng hà, theo ư của quí Khâm sứ th́ nên chọn ai kế vị?". Diệp Văn Cương dịch câu trên thành: "Nay vua Đồng Khánh đă thăng hà, Lưỡng tôn cung và Cơ mật viện đồng ư chọn hoàng tử Bửu Lân lên nối ngôi, không biết ư kiến của quí Khâm sứ như thế nào?"
Nghe vậy quan Khâm sứ đáp: "Nếu Lưỡng cung và Cơ mật viện đă đồng ư chọn hoàng tử Bửu Lân th́ tôi xin tán thành". Câu này Diệp Văn Cương lại dịch là: "Theo ư tôi th́ các quan Cơ mật nên chọn hoàng tử Bửu Lân là hơn cả".
Thế là vào đầu tháng 2 năm Kỷ Sửu (1889) hoàng tử Bửu Lân làm lễ lên ngôi, đặt niên hiệu là Thành Thái, khi đó mới tṛn 10 tuổi.
Vị vua lên sân khấu biểu diễn tuồng hát
Các vua triều Nguyễn hầu hết đều ham mê tuồng hát, họ đă cho xây dựng sân khấu biểu diễn riêng cho loại h́nh này ở trong cung điện để thưởng thức, cho sưu tầm, thu thập các bản tuồng; lập các đội tuồng… Tuy nhiên không chỉ ham thích mà c̣n trực tiếp biểu diễn, đây là chuyện rất đặc biệt, hiếm thấy ở vua Thành Thái, ông là một người say sưa với nghệ thuật tuồng và là một tay trống tuồng tài ba.
Giai thoại kể rằng, nghe nói có một người đánh trống tuồng rất giỏi nên Thành Thái cho gọi ngay vào cung biểu diễn cho vua xem, thấy người này trổ tài đúng như lời đồn, vua liền ban thưởng và thú thật với triều thần rằng người đó đánh trống giỏi hơn cả vua.
V́ mê tuồng, vua Thành Thái nhiều khi trực tiếp cầm trống chầu trong các buổi diễn; ông c̣n biết đánh giá các diễn viên có tài, những đào, kép giỏi, được vua ban thưởng tiền bạc mà có người c̣n được phong tước hiệu, ông Nhưn Đá được phong là “Thế thượng vô song”, ông Quyền Ngữ được phong là “Bích nhăn chi”… Thành Thái c̣n là Hoàng đế duy nhất của triều Nguyễn đă lên sân khấu diễn tuồng, đóng tṛ. Nhà vua từng thủ vai Thạch Giải trong vở “Xảo Tống.
Chèo đ̣ tuyển cung phi
Vua Thành Thái là người thích đi vi hành, ông thường cải trang đi t́m hiểu đời sống nhân dân quanh khu vực kinh đô, trong một lần đi vi hành qua đ̣ trên sông Hương, vua đă chọn được một người đẹp và chuyện này trở thành chuyện tuyển phi tần lạ lùng trong lịch sử.
Truyền rằng vào một ngày gần tết Nguyên Đán năm nọ, vua Thành Thái cải trang làm một người dân đến làng Kim Long ở ngoại thành Huế, sau đó ông lên một chiếc đ̣ ra về. Bước lên đ̣, ông thấy cô gái lái đ̣ khoảng chừng đôi mươi đang khép nép trong chiếc áo vá vai, với đôi má ửng hồng rất có duyên. Tâm hồn vị vua đa t́nh bỗng xao xuyến rộn lên một niềm cảm xúc lạ lùng…
Ông tiến đến gần cô gái hỏi một cách đột ngột rằng có muốn lấy vua không th́ ḿnh làm mối cho. Cô lái đ̣ thấy ông khách hỏi lạ đời, tưởng nói đùa nên không trả lời, ngoảnh mặt quay đi nơi khác. Một cụ già đi đ̣ cũng góp câu nói đùa, bảo cô gái cứ ưng thuận xem ông khách kia xử trí ra sao; thế là cô gái đánh bạo nói ưng. Vua Thành Thái thích thú đứng dậy đi về phía lái, cầm tay cô kéo ra đầu mui thuyền rồi nói:
- Rứa th́ Quư Phi ngồi nghỉ để trẫm chèo cho!
Nói xong cầm lái cầm chèo đưa đ̣ đi trước sự ngạc nhiên vui vẻ của mọi người. Cô lái đ̣ và mọi người không hiểu chuyện ǵ sẽ xảy ra… Khi đ̣ đến bến Nghinh Lương, trước Phu Văn Lâu, ở kinh thành, vua quay lại nói đùa:
- Thôi các người đứng dậy trả tiền đ̣ cho Trẫm và tiễn đưa Quí phi vào cung!
Đến lúc này ai nấy đều ngỡ ngàng, kinh ngạc khi nhận ra vua, tất cả đều cúi đầu hành lễ rồi đứng lên, rời đ̣ và tiễn cô lái đ̣ làng Kim Long vô nội làm cung phi của vua Thành Thái. Từ chuyện này mà dân gian có câu ca dao:
“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm yêu trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi” .
Câu hát không nói rơ “trẫm” ở đây là ai, nhưng nhiều người quả quyết chỉ có vua Thành Thái mới dám “liều” như thế…
Cho dựng bia tiến sĩ khắc tên duy nhất một người
Lệ dựng bia khắc tên những người thi đỗ Tiến sĩ được đặt ra từ đời Lê Thánh Tông như là một cách tôn vinh đặc biệt. Đến đời Nguyễn, lệ dựng bia vẫn được duy tŕ cho đến khi khoa thi Nho học cuối cùng trong lịch sử kết thúc vào năm Kỷ Mùi (1919), trong số bia Tiến sĩ do nhà Nguyễn dựng có một tấm bia chỉ khắc tên duy nhất một người, tấm bia này do vua Thành Thái dựng riêng cho Bùi Ân Niên.
Bùi Ân Niên tên thật là Bùi Văn Dị, khoa thi Hội năm Ất Sửu (1865) đời vua Tự Đức ông là một trong số những người đỗ (trúng cách), có tên trong danh sách vào thi Đ́nh. Theo lệ, người trúng cách mặc nhiên đă đỗ Tiến sĩ, vào thi Đ́nh chỉ là cuộc tranh đua thứ hạng các bậc đỗ Tiến sĩ mà thôi. Tuy nhiên không hiểu sao ông bị đánh tụt xuống Phó bảng, học vị ở dưới Tiến sĩ. Đây là trường hợp chưa từng thấy trong các khoa thi triều Nguyễn.
Dù buồn nhưng Bùi Ân Niên coi đó là chuyện không may, sau khi thi đỗ ông ra làm quan dần trải nhiều chức vụ, có đóng góp lớn trong các hoạt động ngoại giao, thi cử, quân sự, văn học, sử học và giáo dục (ông chính là thầy của vua Đồng Khánh)… Năm Kỷ Sửu (1889) vua Thành Thái lên ngôi đă phong cho Bùi Ân Niên chức Thượng thư bộ Lại, Phủ chính đại thần; trong thời gian này ông đă tâu vua xin xét lại học vị Tiến sĩ cho ḿnh.
Năm Canh Dần (1890) vua Thành Thái xét thấy ông có công lao và thực tài, lại được sự đồng t́nh của Thái hoàng thái hậu Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức) nên đă ra chỉ dụ truy phục học vị Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân của khoa thi năm Ất Sửu (1865) cho ông. Để chứng tỏ việc này không mang tính h́nh thức, vua c̣n ban cho ông đủ nghi thức áo, mũ, cân đai, cờ biển và cho dựng một tấm bia tiến sĩ ở tại Văn Miếu - Huế, trên bia khắc tên Bùi Ân Niên và lời dụ của vua về việc truy phục học vị cho ông.
Lê Thái Dũng
DanViet