(VTC News) - Chúng nhét con đỉa vào vết rạch, rồi khâu kín lại. Nằm trong máu, nên con đỉa tha hồ hút. Chỉ một lúc, nó đã phình to và cựa quậy cơ thể căng phình của nó. Nó lớn nhanh chả khác gì bơm xe. Vùng kín người chiến sỹ kiên trung căng nhức như muốn nổ tung, buốt tận óc.
Những trò tra tấn man rợ
Có lẽ, không đâu trên thế giới này mà những đòn đánh đập, tra tấn, áp chế tinh thần lại khủng khiếp như ở nhà tù Phú Quốc.
Tại nhà trưng bày ở nhà tù, hiện còn mô tả 24 ngón đòn tra tấn man rợ mà bọn cai ngục sử dụng để hành hạ thể xác và tinh thần tù binh cộng sản.
Những ngón đòn mà chỉ cần nhắc đến, nhiều người cũng phải rùng mình khiếp đảm: dùng chày đập nát vụn mắt cá chân, đục từng miếng xương bánh chè, dùng ván gỗ và đinh vít ép vỡ lồng ngực, tẩm dầu đốt cháy vùng kín, luộc người trong chảo nước sôi hay nướng người trên lửa than rực hồng…
Chúng vặn ốc vít đến khi vỡ lồng ngực tù binh
Một trong số ít tù binh cộng sản bị tra tấn khủng khiếp mà vẫn sống sót đến ngày nay là cựu tù Trần Hồng. Ông đã từng gây chấn động trong lịch sử nhà tù Phú Quốc bằng cuộc vượt ngục có một không hai. Ông đã vượt 18 lớp rào kẽm gai giữa thanh thiên bạch nhật dưới hàng ngàn con mắt cú vọ của bọn cai ngục.
Trải qua những thử thách quá thảm khốc, nhưng giờ đây, ngồi giữa phố phường Sài Gòn, ông kể lại cứ bình thản như thường. Cựu tù Trần Hồng cởi manh áo trên người, để lộ vòm ngực chằng chịt dọc ngang những vết sẹo to, sâu như những vết dao chém.
Ông vén hai ống quần khoe hai bắp chân sùi lên những đống sẹo do bọn cai ngục nướng sắt xuyên qua.
Cảnh đưa tù binh ra Phú Quốc bằng trực thăng
Cựu tù Trần Hồng là chiến sĩ cách mạng kiên trung, bị coi là tù binh cứng đầu cứng cổ, nên ông phải trải qua hầu hết những ngón đòn tra tấn độc ác nhất của nhà tù này.
Trần Hồng là người gốc Bình Định. Ông rất giỏi võ cổ truyền. Năm 1968, ông bị bắt ở mặt trận Huế và bị đày ra Phú Quốc khi vừa tròn đôi mươi.
Máu nóng, lại có khí phách thượng võ, nên bọn cai ngục rất… ngứa mắt, nên vừa vào trại, chúng đã cho ông nếm đủ các hình phạt, rồi tống vào khu biệt giam.
Nghĩa địa chôn các tù binh Phú Quốc
Phòng biệt giam được coi là “địa ngục trên mặt đất”. Căn phòng rộng chỉ vẻn vẹn 22 mét vuông, nhưng chúng nhốt tới 197 tù binh. Tính ra, mỗi mét vuông giành cho 8 người. 8 con người phải đứng, ngồi, lom khom chồng chất lên nhau. Hôi hám, bệnh tật, ghẻ lở không tưởng tượng nổi.
Với tham vọng biến tù binh cứng đầu Trần Hồng thành người tàn phế cả thể chất lẫn tinh thần, cứ thi thoảng bọn cai ngục lại lôi ông ra phòng tra tấn ở đầu phòng biệt giam.
Chúng bắt ông đặt tay lên bàn, rồi lần lượt lúc dùng búa, lúc dùng chày nện thẳng cánh rất mạnh vào từng ngón tay. Mỗi cú nện hơi chếch, móng tay ông tuột ra, văng xuống đất, hoặc còn dính da lủng lẳng.
“Biết rằng chúng sẽ bóc hết móng tay, nên chẳng để chúng phải ép, tôi tự động xòe cả bàn tay cho chúng nó đập. Đập hết móng nay rồi chúng nó ném tôi lại phòng biệt giam” – cựu tù binh Trần Hồng bình thản kể.
Khi những ngón tay vừa khô máu, chúng lại lôi ông ra bẻ răng, nướng thanh sắt nhọn chọc thủng bắp chân.
Chúng trói ông lại, ép miệng ông vào cái lỗ tròn của vỉ sắt, rồi kê thước bằng đồng vào miệng ông. Cứ vỗ vào chuôi thước một cái, thì một cái răng văng ra.
Cựu tù Trần Hồng chẳng thèm kêu đau, còn chửi: “Mẹ chúng mày. Oai gì cái lối trói người lại để tra tấn. Giỏi thì ra bìa rừng kia, tao chấp cả chục thằng”.
Lộn vỉ sắt đến tứa máu
Tất nhiên bọn hèn nhát ấy chẳng giám đấu với tù binh Trần Hồng. Ngay lập tức, chúng quẳng ông vào chuồng cọp, chuồng chó với mục đích hành ông đến chết.
Chuồng cọp kẽm gai là một hình thức tra tấn làm suy kiệt thể chất và tinh thần của những tù binh cứng đầu. Chuồng cọp được bố trí ngoài trời ở mỗi phân khu, có loại nhốt một người, có loại nhốt đến 5 người.
Có loại người tù chui vào buộc phải nằm dưới cát, có loại nằm trên dây kẽm gai sắc nhọn, có loại chỉ ngồi được, có loại chỉ đứng lom khom. Các tù binh cứ phải giữ tư thế đó cả ngày, cả đêm, cả tuần. Chỉ cần cựa quậy, đổi tư thế là thép gai cứa rách da thịt.
Chuồng cọp
Khi đã vào chuồng cọp là tù nhân phải cởi trần. Ngày thì phơi nắng, đêm dãi sương, trời mưa thì lóp ngóp như cá. Đêm rét thì chúng tặng cho vài xô nước lạnh cho… mát; ngày nắng thì chúng dội nước muối cho… giảm cân. Hôm nào nắng to, chúng đốt thêm lửa ở gần cho… ấm.
Chỉ vài ngày nhốt chuồng cọp, toàn thân tù binh sẽ lột da như cua, như rắn. Da non mọc lên ngứa ngáy khủng khiếp, nhưng rồi lớp da non lại bị đốt cháy và lột tiếp. Nhốt chuồng cọp độ 10 ngày, tù nhân chỉ còn da bọc xương.
Chúng hành hạ tù binh Trần Hồng trong việc ăn uống cũng dã mãn thú tính. Cơm chỉ được một nắm bằng quả trứng, nhưng chúng trộn với cát và nước tiểu. Không ăn thì chúng đánh, nôn ra cũng đánh. Chúng dùng roi cá đuối quất veo véo.
Ép lồng ngực
Roi cá đuối phơi khô là thứ khủng khiếp. Khi vụt, lớp gai sẽ móc vào thịt da. Chúng giật mạnh khiến chóc da, tóe máu. Vụt vài cái thì cơ thể bê bết máu. Tranh thủ lúc máu đang chảy, chúng lấy muối ớt xát vào để… tiệt trùng.
Hành hạ ở chuồng cọp khiến nhiều tù binh phẫn uất, không chịu nổi mà phát điên. Có tù binh điên tiết chửi bới bọn cai ngục. Chửi chán thì rạch bụng cho ruột gan thòi lòi ra ngoài, rồi chết trong danh dự.
Riêng tù binh Trần Hồng thì tinh thần vẫn vững như bàn thạch. Lom khom trong chuồng cọp mà ông vẫn luyện khí công.
Chuồng cọp không ăn thua gì, chúng bắt ông lộn vỉ sắt. Tấm vỉ sắt với những lỗ tròn, đầy gai, mấu. Chẳng cần ép, cựu tù Trần Hồng tự cởi áo, cắm đầu lộn vỉ sắt. Lộn vài vòng thì lưng rách toác nham nhở, máu me bê bết. Tóc bị lột cả mảng. Khi ông bất tỉnh, không lộn nổi nữa, thì chúng quẳng lại phòng biệt giam.
Anh em, đồng chí trong tù xót ruột, người nhường nước lau vết thương, người nhường quần áo, nhưng cựu tù Trần Hồng gạt đi: “Mặc làm gì. Mặc vào nó đánh lại rách nữa”.
Đảng ủy phát hiện một tên chỉ điểm trà trộn vào phòng biệt giam, Trần Hồng đã xin khử tên này. Ông cùng một người tù nữa trùm áo lên đầu hắn rồi bóp cổ đến chết.
Giết hắn rồi thì khiêng xuống nhà bếp dúi đầu vào bến than đang cháy. Hôm sau, bọn cai ngục phát hiện, thì mọi người thống nhất khai: “Nửa đêm lạnh quá tù nhân này mò xuống bếp sưởi đã trúng gió, gục đầu vào bếp than chết”.
Tù binh tự mổ bụng mình
Tên giám thị vằn mắt: “Chúng mày giỏi lắm. Giờ tao sẽ cho chúng mày chui đầu vào lò lửa xem có chết cảm không”.
Nói xong, hắn cầm dùi cui gõ vào đầu từng người. Gõ vào ai, thì có nghĩa người đó ra khỏi phòng. Các cựu tù trong phòng đều tin chắc chúng sẽ giết cho đến khi tìm ra người sát hại tên chỉ điểm.
Trong hoàn cảnh đó, tù nhân Trần Hồng đứng lên bảo: “Không phải tra khảo gì cả. Chính tao đã giết nó”.
Ngay lập tức, tên giám thị đưa Trần Hồng xuống phòng tra khảo của Bộ chỉ huy nhà tù. Tại đây, chúng áp dụng cực hình chưa từng được sử dụng ở nhà tù này.
Hai thằng cai ngục lột truồng ông Trần Hồng, rồi trói nghiến ông vào cái cọc chôn giữa phòng tra khảo. Một tên dùng dao lam rạch một đường thật sâu, dọc theo vùng kín. Máu chảy ròng ròng xuống sàn nhà.
Đồng chí Trịnh Văn Thanh bị địch cưa chân để khỏi vượt ngục
Hắn mở hộp sắt, lấy ra con đỉa trâu to bằng ngón tay, đen bóng nhầy nhẫy. Loài đỉa Phú Quốc hút máu rất mạnh. Khi nó xơi no, cơ thể bằng ngón tay của nó sẽ trương lên bằng cổ tay.
Chúng nhét con đỉa vào vết rạch, rồi khâu kín lại. Nằm trong máu, nên con đỉa tha hồ hút. Chỉ một lúc, nó đã phình to và cựa quậy cơ thể căng phình của nó. Nó lớn nhanh chả khác gì bơm xe. Vùng kín người chiến sỹ cách mạng kiên trung căng nhức như muốn nổ tung, buốt tận óc.
Biết rằng chúng sẽ bóc hết móng tay, nên chẳng để chúng phải ép, tôi tự động xòe cả bàn tay cho chúng nó đập. Đập hết móng nay rồi chúng nó ném tôi lại phòng biệt giam.
Cựu tù Trần Hồng
Lớp da ngoài vùng kín rách dần theo độ lớn của con đỉa. Con đỉa bên trong vẫn không ngừng hút máu, cựa quậy. Đau quá, ông Trần Hồng ngất xỉu, không biết gì nữa. Lúc tỉnh dậy, nhìn xuống, chỉ thấy một nhúm thịt tơi tả. Trong lúc ông ngất xỉu, chúng đã triệt sản ông.
Một tù binh nữa, cũng bị chúng hành hạ khủng khiếp không kém gì ông Trần Hồng, đó là tù binh Tô Hồng Minh.
Tên trung sĩ Điền và trung sĩ Nghĩa đánh đập tra khảo ông Minh mãi không được gì, chúng liền đổi cách. Chúng lột quần ông Minh, bắt ngồi dạng giữa hai ghế kê cạnh nhau.
Tên trưởng trật tự Dương Văn Hai bưng vào phòng một chiếc đĩa đựng bột màu đen, đặt phía dưới ghế. Hắn bật diêm, chiếc đĩa bùng lên thành ngọn lửa.
Chỉ một lát sau, bộ phận sinh dục của cựu tù này bị nướng chín, nứt da, nhỏ mỡ xuống đĩa cháy xèo xèo. Tù binh Tô Hồng Minh ngất lịm. Bộ phận sinh dục của ông đã bị nướng chín.
Thực vậy, khi bức màn tre xã hội chủ nghĩa phủ chụp xuống, cả nước bị đẩy vô tròng, một vòng oan nghiệt giăng phủ cả hai miền Nam Bắc, người ta rùng mình và tìm đường tháo chạy, mấy cây cột đèn bất hạnh đã không có chân để ra đi. Năm năm đầu, từ 1975 đến 1979, cả nước phủ một mầu tang đói khổ, chiến tranh hai đầu Nam (Cambodia) Bắc (biên giới Hoa Việt) và áp bức, chết chóc, tù tội từng ngày, từng giờ, từng tiếng gõ cửa ban đêm, từng giọi nước mắt mẹ khóc con, vợ khóc chồng, anh khóc em, tù đày, ly chia, chết chóc...
Tại miền Nam, sau 1975, nhà tù giăng mắc khắp nước, mỗi sáng mở cửa ra, dường như người dân ai cũng đối diện với cửa nhà tù, gia đình nào cũng có thân nhân xa gần nằm trong tù. Ít có nơi nào trên thế giới bị sống trong quái trạng lạ lùng, đen tối và bi đát này. Ngoài những nhà tù chính hiệu, cộng sản dựng lên vô số những trại tù đủ loại dưới cái tên trá hình là "trại cải tạo" để giam hãm, trả thù những chiến binh đối chiến bại trận. Ðiều này không có trong bất cứ điều khoản nào của công ước quốc tế Geneve về tù hàng binh. Hãy đọc mấy dòng báo Nhân Dân tháng 6/1975:
"Cải tạo là một diễn biến bền bỉ và lâu dài, được quản lý chặt chẽ và liên tục, chúng ta phải quản lý từng cá nhân, quản lý tư tưởng, hành động, lời nói, cách sống của đối tượng, của quân ngụy..."
Chính vì cả nước biến thành một nhà tù vĩ đại mà đồng bào, nhất là dân ở miền Nam, ùn ùn tìm đường thoát, bất kể ngày đêm, bất kể sống chết. Thái Bình Dương bỗng hẹp lại như dòng sông Dịch in bóng Kinh Kha trước những chết chóc, tù đày, đói khổ...trùng trùng giăng mắc sau lưng với hàng ngàn, hàng vạn đồng bào bất hạnh len lách trong bóng đêm để thoát ra biển rộng, họ không làm thân Kinh Kha sang sông giết bạo Tần, mà làm kẻ trốn chạy một thứ bạo Tần, một chế độ Tần tân thời bạo ngược, nham hiểm và dã man có hệ thống số một trong cộng đồng nhân loại:
Bên kia sông Dịch dòng sinh tử
Tráng sĩ hề! Thân trao núi sông
Một mối thù nung trên mũi kiếm
Một xác thân nhẹ tựa lông hồng.
Người nay hơn kẻ qua sông Dịch
Cả triệu thuyền nhân vượt biển Ðông
Sông Dịch, Kinh Kha còn ngại sóng
Thái Bình Dương người coi như không!
(Lê khắc Anh Hào)
Một trường hợp điển hình về tội ác kinh người của cộng sản tại Bến Tre qua những vụ đăng ký vượt biên lấy vàng: từ lường gạt đến thảm sát đồng bào.
Như trong phần trình bày cô đọng, ngắn ngủi ở trên, chúng ta đã thấy nỗi kinh hoàng của thế giới khi biết được những âm mưu của cộng sản Việt Nam trong chính sách xuất cảng thuyền nhân để lấy vàng. Dường như chưa có một chế độ nào trên thế giới có cái can đảm làm những việc làm tồi tệ về mặt con người như thế. Nhưng, thế giới làm sao biết được cộng sản Việt Nam có nhiều cái tồi tệ dã man nghìn lần hơn việc cho thuyền nhân ra đi để lấy vàng bỏ túi: Họ đã vét sạch vàng của thuyền nhân, một số cho mìn nổ chìm ghe khi ghe ra cửa biển, một số giam giữ lại như những tù nhân, bệnh hoạn, đói khổ và tiếp tục cho người tiếp xúc với thân nhân thuyền nhân ở Sài Gòn và tỉnh thành. Cuối cùng của màn lường gạt, sát nhân, tráo trở này là hàng trăm người chết, hàng vạn người tan nát cuộc đời... mà không đến được bờ tự do.
Thế giới không hề biết chuyện này. Và nếu chuyện này đến tai LHQ và thế giới loài người văn minh, có thể họ không tin hay không tưởng tượng chuyện đó có thể xẩy ra trên trái đất này.
Nhưng, sự thật là nó đã xẩy ra. Nó đã xẩy ra ở Vũng Tàu, nó đã xẩy ra ở Tiền Giang, Cần Thơ và nhiều nơi khác khi thỉnh thoảng có một chiếc ghe đăng ký bị cho nổ mìn, xác người trôi tấp lớp lớp vào bờ. Bao nhiêu người vừa mất cả vàng bạc, tài sản, vừa mất cả mạng sống. Dường như người ta, thân nhân người chết, đã câm lặng, chịu đựng oan khiên và cho những cái chết tức tưởi đó chôn sâu vào quên lãng, không một tiếng kêu than, không một lời cáo trách, kể cả những người dân ở Vũng Tàu chứng kiến hàng trăm xác đồng bào mình dạt vô bờ biển năm nào.
Người viết nghe kể, nhưng không có dữ kiện cho các trường hợp vừa kể trên ở các địa phương khác, nhưng có tạm đủ dữ kiện cho trường hợp thảm sát ở Bến Tre. Nó là trường hợp điển hình về một thứ tội ác kinh tởm không thể bỏ qua. Chỉ một vụ này chế độ Hà Nội cũng đủ bị thế giới lên án gắt gao.
Trong hai năm liên tục, từ 1978 đến 1979, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, theo kế hoạch 2 hay kế hoạch B của Bộ Nội Vu, như tiết lộ của ông Bùi Tín trong Mặt Thật, đã cho thi hành chính sách bán bãi, đăng ký vượt biên lấy vàng tại nhiều nơi, mà một trong những nơi chủ yếu là tỉnh Bến Tre. Cơ quan thi hành chính sách là công an Bến Tre. Người nhận chỉ thị hoàn thành công tác đảng là Hai Chiến, trung tá công an Bến Tre.
Trong chiến dịch hốt vàng năm 1978, công an tỉnh Bến Tre đã cho phép những người đăng ký vượt biên đóng từ 6 đến 10 chiếc tàu đăng ký lớn nhỏ, có khả năng chở từ 250 người đến 4000 người. Họ bắt đầu thu vàng theo công thức mỗi người 10 lượng vàng cho nhà nước cộng sản, 2 lượng cho nhóm chủ tàu đóng tàu. Khi tàu đóng xong, sẳn sàng mọi thứ để lên đường và bắt đầu ra đi thì công an thường gửi thêm từ 100 đến 150 người nữa. Số vàng dâng nộp của nhóm sau cùng này hoàn toàn nằm trong tay của công an. Người ta không biết trong số này có bao nhiêu là thân nhân, bạn bè liên hệ với công an, bao nhiêu là thành phần nộp tiền cho công an để được gửi đi, và bao nhiêu là các cán bộ tình báo VC được cài theo ra nước ngoài cho các điệp vụ tương lai của cộng sản. Thế nhưng, theo những người đã sống ở Bến Tre, chứng kiến những cái chết thảm của đồng bào, chứng kiến những vụ tàu đăng ký ra đi... thì đa số những chuyến đăng ký ra đi có người của công an gởi kèm theo vào giờ chót đều ra biển rộng an toàn, đến nơi đến chốn. Còn lại, một số tàu không có người công an gởi theo, khi ra cửa sông Ba Lai và Hàm Luông, tàu bị nổ tan như xác pháo trên biển. Các vụ nổ mìn vỡ tàu đầy ắp thuyền nhân sau khi đã giao vàng cho cộng sản này xẩy ra năm 1978 mấy lần, có chiếc đông lên tới 600 người, tất cả đều tử nạn, lớp lớp xác người trôi tắp ngược vô bờ sông thuộc các xã Thừa Ðức, Thế Thuận, Bình Ðại tỉnh Bến Tre. Xác người lềnh bềnh trên dòng sông, xác người lềnh bền trôi ra biển, xác người lềnh bền tắp vô bờ... làm ô nhiễm, hôi thối cả một vùng dân cư sống hai bên bờ sông. Sau đó, xác người lớn, xác trẻ em bị cá ăn... và một thời gian sau đó, dân chài đã lưới được những con cá còn cả xương người trong bụng. Dân tại vùng này đã không dám ăn cá gần cả hai năm 1978 – 1979...
Thời gian lại phôi phai, sức ép của chế độ, của đói khổ, của khát vọng ra đi tìm tự do, của khát vọng tìm đất sống, đã lại dồn người ta vào những chuyến tàu đăng ký khác, cũng ở Bến Tre. Còn gì oan nghiệt hơn hở trời!
Sau các vụ cho đi thoát, cho nổ mìn thảm sát thuyền nhân trên biển, hàng chục ngàn lượng vàng được Trung tá công an Hai Chiến thu gom rồi chuyển ra Bắc cho Lê Duẩn/Lê Ðức Thọ và các tay chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam, năm 1979, nhà nước cộng sản lại cho phép đóng 12 chiếc tàu đăng ký cho số người đi dự trù khoảng 4000 người, mỗi người đóng tổng cộng 12 lượng vàng.
Khi tàu đóng xong, tất cả sẳn sàng lên đường với đầy đủ lương thực, nước uống, dầu và thiết bị hải hành... thì công an Bến Tre cho hay là họ đã móc nối được một chiếc tàu sắt lớn mang cờ Panama có khả năng bốc một lược 4000 người, đi biển an toàn hơn.
Chiếc Panama có mặt ở cửa biển Bình Ðại, được công an cộng sản thỏa thuận/deal với giá 2 lượng vàng mỗi người đi, vị chi là 8000 cây vàng cho số 4000 người mà công an phải giao cho nhóm điều khiển tàu Panama trước khi tàu nhổ neo. Cũng theo giải pháp này, tất cả chủ ghe của 12 chiếc ghe đóng xong phải giao cho nhà nước cộng sản. Làm một bài toán, nhà nước cộng sản Việt Nam ngồi không vẫn thu được 8 lượng vàng x 4000 = 32.000 lượng, cộng với 12 chiếc ghe đóng sẵn có đầy đủ phương tiện hải hành sẵn sàng ra đi.( Sau khi chi 2 lượng mỗi đầu người cho tàu lớn...)
Chấp nhận giải pháp được chuyển qua tàu sắt vì nghĩ sẽ được an toàn hơn trên biển, hàng 4 ngàn người đồng ý qua tàu Panama, nằm đầy các hầm tàu và boang tàu. Rồi ngày một, ngày hai... tàu không nhổ neo. Khi công an cộng sản nắm được trong tay toàn bộ số vàng khổng lồ và 12 chiếc ghe hiến lại, họ trở mặt, không thi hành những điều giao ước với tàu Panama.
Tình trạng kỳ kèo nhùng nhằng này kéo dài gần cả nửa tháng, hàng ngàn người sống chen chúc, đói khát, mất vệ sinh dưới các hầm tàu lâm vào tình trạng sống dở chết dở tuyệt vọng. Các toán công an cộng sản bắt đầu màn trấn lột vô lương kế tiếp, tàn nhẫn, lạnh lùng: họ bán từng gói thức ăn, từng lon nước uống để lột từng chỉ vàng còn sót lại của đồng bào theo kiểu "tiền trao, cháo múc", họ thả xuống hầm tàu một sợ dây cột cai lon hay chiếc móc để khi kéo lên một khâu vàng, họ mới thả xuống một lon nước hay một gói thức ăn. Màn vơ vét này có chỉ thị của bộ Nội Vụ cộng sản hay chỉ là chuyện lợi dụng của công an cấp dưới, không ai biết, nhưng nó quả đã diễn ra trước mũi công an cấp trên, công khai và tàn nhẫn. Trong thời gian đó, nhiều trẻ em và người già đã chết, và xác bị vứt xuống biển một cách lạnh lùng, không kể số người lã liệt, bệnh tật, đói khát rũ liệt đầy khoang tàu.
Không biết giữa tàu Panama và công an Bến Tre kèn cựa ra sao, công an lại trở mặt thông báo cho các nhóm tổ chức đăng ký, đòi thêm mỗi đầu người một cây vàng thì tàu mới nhổ neo ra đi. Ai còn vàng thì đóng tại chỗ, ai không vàng thì cử đại diện, mỗi người viết một cái thư cho gia đình, công an chở về Sài Gòn, gia đình cung cấp thêm hay vay mượn nộp cho đủ. Thế nhưng sau đợt vét hàng ngàn lượng vàng sau cùng này, cộng sản cũng không giao số lượng vàng mà họ thỏa thuận cho nhóm người điều khiển tàu Panama, và tàu Panama đã quyết định rời bến không chở theo bất cứ một thuyền nhân nào.
Truớc quyết định này của tàu Panama, công an Bến Tre không nhượng bộ, họ quyết định ăn hết số vàng thu được, vì nạn nhân là hàng ngàn người Việt Nam mà đa số là người Hoa... đối với cộng sản Việt Nam chỉ là cỏ rác. Hai Chiến, trung tá công an và các giới chức công an Bến Tre, có thể cả trung ương đảng ở Hà Nội, đã tìm cái cớ để chuyển hết thuyền nhân đăng ký ra khỏi tàu để tập trung ở An Nhơn, Thạnh Phú.
Cái lý cớ ngụy tạo đó là: Có bọn phản động trong đám thuyền nhân. Hàng ngàn người lũ lượt chen chúc, vật vờ, bệnh hoạn đói khát như những thây ma được cộng sản dùng những ghe đăng ký đã đóng sẳn và để lại cho họ, bốc khỏi tàu Panama và chuyển lên bờ, nhốt tập trung ở An Nhơn, Thạnh Phú... Thuyền nhân lên lại đất liền như những như những người sắp chết, họ quá đói, họ quá yếu, họ ăn cả củ non, ăn cả chuối sống và nhiều người đã chết sau đó vì bệnh hoạn tiêu chảy, thổ tả....
Ðể cho "gánh nặng người" sau khi đã bị trấn lột sạch tan biến dần, công an thả lỏng sự kiểm soát cho ai muốn trốn thì trốn, hoặc giả họ không còn nhu cầu giam giữ sau khi kế hoạch tận thu vàng đã thành công, hoặc giả công an không đủ nhân lực để kiểm soát hàng ngàn người tá túc gần như ăn xin ở An Nhơn, Thạnh Phú và các xã lân cận... Số người sống sót sau cơn ác mộng tìm cách trốn về Sài Gòn hay về quê cũ.
Tàu Panama đã ra khơi.
Hàng ngàn người ở lại phờ phạc, đau ốm, đói khát,trốn chui, trốn nhủi... để thảm kịch Bình Ðại, Bến Tre của chuyến đi đăng ký không thành tan biến, phai mờ dần trong câm nín và uất hận của nạn nhân, và của cả đồng bào Việt Nam trong vùng, những người đã âm thầm chia cơm xẻ áo, dang tay bảo bọc và giúp đỡ đồng bào nạn nhân khốn khổ. Biết bao nước mắt đã đổ ra trong những đêm bà con tâm sự cùng nhau. Cái ghê gớm kinh người của cộng sản Việt Nam là ở chỗ đó.
Theo ước đoán của đồng bào địa phương tại .... Bến Tre thì trong 2 năm 1978 và 1979, số người chết vì bị vỡ tàu tại cửa biển có khoảng từ 5 đến 8 ngàn người tại cửa Ba Lai, Bình Ðại... mà đa số là ghe tàu vỡ chìm đều do mìn nổ trong hầm máy. Người chịu trách nhiệm cho các "chiến dịch" vét vàng và giết người tàn độc này là trung tá công an Hai Chiến, phó công an tỉnh Bến Tre thời đó. Ngoài những chia chác tại địa phương, số vàng vét được từ những vụ ghe tàu đăng ký vượt biên cho đi lọt, hay bị thảm sát, riêng chỉ tại Bến Tre, số vàng chuyển ra Hà Nội cũng là con số khổng lồ mà khó ai biết được chính xác bao nhiêu.
Tại sao họ dám làm chuyện tày trời đó? Dường như sau 1975, khi người và đảng cộng sản Việt Nam vỗ ngực, ưỡn ra đại dương gào thét "đảng cộng sản Việt Nam vô địch, bách chiến bách thắng, đánh bại một lèo ba đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ..." thì phần còn lại của trái đất dưới mắt họ bỗng nhỏ lại, nhỏ hơn nước Việt Nam mà họ mới vừa thống trị toàn vẹn, "nhân loại và nước Mỹ im thin thít trước chiến thắng vĩ đại của đảng ta" (!)... Và từ đó họ nghĩ họ là con mãnh sư vô địch giữa rừng Phi châu toàn là nai non khật khờ, không cần dư luận thế giới, nên họ có thể ra tay làm bất cứ điều gì... mà không sợ bất cứ ai hài tội.
Nạn nhân bị trói bằng đủ loại dây, kể cả dây kẽm gai
Không phải Ðức Quốc Xã ; Không phải Khờ Me Ðỏ ;
Mà là tội ác cộng sản Việt Nam tại Khe Ðá Mài 1968
Người dân các thành phố còn đang yên giấc, đạn pháo kích của cộng sản dội lên đầu họ, đạn AK, B40, thượng liên, trung liên lựu đạn xả vào nhà họ ... Những vũng máu, những xác chết thi nhau đổ xuống ngay trong đêm Giao Thừa và những ngày Nguyên Ðán. Không phải chỉ là những cái chết do tên bay, đạn lạc. Có rất nhiều người, già trẻ, lớn bé, đàn ông, phụ nữ, nhất là tại Huế đã bị quân đội cộng sản gọi ra trước sân nhà rồi xả súng sát hại ... Họ chết mà cũng không hiểu tại sao bị giết. Ðó là những cái chết tức tưởi.
Oan khiên ngập trời ! Người Việt Nam cũng như cả thế giới đều không thể hiểu nổi sự hung bạo của quân cộng sản tại Huế. Có người cho rằng vì cán binh cộng sản tưởng rằng khi họ kéo quân vào thành phố, sẽ được đồng bào ra hoan hô, đón mừng, tiếp tế, dẫn đường ... ; nhưng khi tới nơi thấy đồng bào chạy trốn nên họ cho là phản động và ra tay sát hại không thương xót.
Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội thường khoe khoang về "quân đội anh hùng" của họ. Than ôi, không có thứ anh hùng nào mà bắn vào đàn bà trẻ con, bắn vào thường dân vô tội, bắn vào những người đang bị trói tay, trói chân ...
Ðây quả là mối nhục ngàn đời của quân đội cộng sản.
Về những nấm mồ tập thể ở Huế, ký giả Elje Vannema đã liệt kê như sau :
01) Trường Gia Hội : trước sân có 14 hố với 101 tử thi, xung quanh có nhiều hố khác với trên 203 xác, cộng 304 xác ;
02) Chùa Tăng Quang : 12 hố 43 xác trong đó có nhiều xác bị trói bằng dây thép gai ;
03) Bãi Dâu : 3 hố, 26 xác ;
04) Cồn Hến một hầm, 100 xác ;
05) Sau Tiểu chủng viện, 2 hầm, 3 xác gồm 2 Mỹ, 1 Pháp ;
06) Quận Tả Ngạn : 3 rãnh, 21 xác ;
07) Phía Ðông Huế 5 dặm : 25 xác ;
08) Khu vực lăng Tự Ðức, Ðồng Khánh trên 20 hầm
09) Cầu An Ninh : 20 xác ;
10) Khu vực cửa Ðông Ba : 1 hầm, 7 xác ;
11) Trường tiểu học An Ninh Hạ : 1 hầm, 4 xác ;
12) Trường Văn Chi : 1 hầm, 8 xác ;
13) Chợ Thong (cách thành phố 2 cây số về hướng Tây) : 102 xác ;
14) Khu vực Lăng Gia Long : khoảng 200 xác ;
15) Ðịa điểm giữa chùa Tăng Quang và chùa Tường Vân : 4 xác (trong đó có xác 3 người Ðức) ;
16) Ðịa điểm Ðông Gi (gần biển) : 101 xác.
Tới tháng 05/1968, tổng cộng có trên 900 xác người mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính ... Ðầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá ...
17) Quận Phú Thứ : trên 800 xác được tìm thấy ở 3 làng Vinh Thái (135 xác), Phú Lương (22 xác) và Phú Xuân (230 xác, sau đó người ta còn tìm thấy trong khu vực này 357 xác nữa.
18) Làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa (phía Nam lăng Gia Long) : 11 xác ;
19) Thúy Thạnh, quận Hương Thủy : 70 xác ;
20) Khe Ðá Mài 428 bộ xương ...
Một trường hợp điển hình về tội ác kinh người của cộng sản tại Bến Tre qua những vụ đăng ký vượt biên lấy vàng: từ lường gạt đến thảm sát đồng bào.
Như trong phần trình bày cô đọng, ngắn ngủi ở trên, chúng ta đã thấy nỗi kinh hoàng của thế giới khi biết được những âm mưu của cộng sản Việt Nam trong chính sách xuất cảng thuyền nhân để lấy vàng. Dường như chưa có một chế độ nào trên thế giới có cái can đảm làm những việc làm tồi tệ về mặt con người như thế. Nhưng, thế giới làm sao biết được cộng sản Việt Nam có nhiều cái tồi tệ dã man nghìn lần hơn việc cho thuyền nhân ra đi để lấy vàng bỏ túi: Họ đã vét sạch vàng của thuyền nhân, một số cho mìn nổ chìm ghe khi ghe ra cửa biển, một số giam giữ lại như những tù nhân, bệnh hoạn, đói khổ và tiếp tục cho người tiếp xúc với thân nhân thuyền nhân ở Sài Gòn và tỉnh thành. Cuối cùng của màn lường gạt, sát nhân, tráo trở này là hàng trăm người chết, hàng vạn người tan nát cuộc đời... mà không đến được bờ tự do.
Thế giới không hề biết chuyện này. Và nếu chuyện này đến tai LHQ và thế giới loài người văn minh, có thể họ không tin hay không tưởng tượng chuyện đó có thể xẩy ra trên trái đất này.
Nhưng, sự thật là nó đã xẩy ra. Nó đã xẩy ra ở Vũng Tàu, nó đã xẩy ra ở Tiền Giang, Cần Thơ và nhiều nơi khác khi thỉnh thoảng có một chiếc ghe đăng ký bị cho nổ mìn, xác người trôi tấp lớp lớp vào bờ. Bao nhiêu người vừa mất cả vàng bạc, tài sản, vừa mất cả mạng sống. Dường như người ta, thân nhân người chết, đã câm lặng, chịu đựng oan khiên và cho những cái chết tức tưởi đó chôn sâu vào quên lãng, không một tiếng kêu than, không một lời cáo trách, kể cả những người dân ở Vũng Tàu chứng kiến hàng trăm xác đồng bào mình dạt vô bờ biển năm nào.
Người viết nghe kể, nhưng không có dữ kiện cho các trường hợp vừa kể trên ở các địa phương khác, nhưng có tạm đủ dữ kiện cho trường hợp thảm sát ở Bến Tre. Nó là trường hợp điển hình về một thứ tội ác kinh tởm không thể bỏ qua. Chỉ một vụ này chế độ Hà Nội cũng đủ bị thế giới lên án gắt gao.
Trong hai năm liên tục, từ 1978 đến 1979, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, theo kế hoạch 2 hay kế hoạch B của Bộ Nội Vu, như tiết lộ của ông Bùi Tín trong Mặt Thật, đã cho thi hành chính sách bán bãi, đăng ký vượt biên lấy vàng tại nhiều nơi, mà một trong những nơi chủ yếu là tỉnh Bến Tre. Cơ quan thi hành chính sách là công an Bến Tre. Người nhận chỉ thị hoàn thành công tác đảng là Hai Chiến, trung tá công an Bến Tre.
Trong chiến dịch hốt vàng năm 1978, công an tỉnh Bến Tre đã cho phép những người đăng ký vượt biên đóng từ 6 đến 10 chiếc tàu đăng ký lớn nhỏ, có khả năng chở từ 250 người đến 4000 người. Họ bắt đầu thu vàng theo công thức mỗi người 10 lượng vàng cho nhà nước cộng sản, 2 lượng cho nhóm chủ tàu đóng tàu. Khi tàu đóng xong, sẳn sàng mọi thứ để lên đường và bắt đầu ra đi thì công an thường gửi thêm từ 100 đến 150 người nữa. Số vàng dâng nộp của nhóm sau cùng này hoàn toàn nằm trong tay của công an. Người ta không biết trong số này có bao nhiêu là thân nhân, bạn bè liên hệ với công an, bao nhiêu là thành phần nộp tiền cho công an để được gửi đi, và bao nhiêu là các cán bộ tình báo VC được cài theo ra nước ngoài cho các điệp vụ tương lai của cộng sản. Thế nhưng, theo những người đã sống ở Bến Tre, chứng kiến những cái chết thảm của đồng bào, chứng kiến những vụ tàu đăng ký ra đi... thì đa số những chuyến đăng ký ra đi có người của công an gởi kèm theo vào giờ chót đều ra biển rộng an toàn, đến nơi đến chốn. Còn lại, một số tàu không có người công an gởi theo, khi ra cửa sông Ba Lai và Hàm Luông, tàu bị nổ tan như xác pháo trên biển. Các vụ nổ mìn vỡ tàu đầy ắp thuyền nhân sau khi đã giao vàng cho cộng sản này xẩy ra năm 1978 mấy lần, có chiếc đông lên tới 600 người, tất cả đều tử nạn, lớp lớp xác người trôi tắp ngược vô bờ sông thuộc các xã Thừa Ðức, Thế Thuận, Bình Ðại tỉnh Bến Tre. Xác người lềnh bềnh trên dòng sông, xác người lềnh bền trôi ra biển, xác người lềnh bền tắp vô bờ... làm ô nhiễm, hôi thối cả một vùng dân cư sống hai bên bờ sông. Sau đó, xác người lớn, xác trẻ em bị cá ăn... và một thời gian sau đó, dân chài đã lưới được những con cá còn cả xương người trong bụng. Dân tại vùng này đã không dám ăn cá gần cả hai năm 1978 – 1979...
Thời gian lại phôi phai, sức ép của chế độ, của đói khổ, của khát vọng ra đi tìm tự do, của khát vọng tìm đất sống, đã lại dồn người ta vào những chuyến tàu đăng ký khác, cũng ở Bến Tre. Còn gì oan nghiệt hơn hở trời!
Sau các vụ cho đi thoát, cho nổ mìn thảm sát thuyền nhân trên biển, hàng chục ngàn lượng vàng được Trung tá công an Hai Chiến thu gom rồi chuyển ra Bắc cho Lê Duẩn/Lê Ðức Thọ và các tay chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam, năm 1979, nhà nước cộng sản lại cho phép đóng 12 chiếc tàu đăng ký cho số người đi dự trù khoảng 4000 người, mỗi người đóng tổng cộng 12 lượng vàng.
Khi tàu đóng xong, tất cả sẳn sàng lên đường với đầy đủ lương thực, nước uống, dầu và thiết bị hải hành... thì công an Bến Tre cho hay là họ đã móc nối được một chiếc tàu sắt lớn mang cờ Panama có khả năng bốc một lược 4000 người, đi biển an toàn hơn.
Chiếc Panama có mặt ở cửa biển Bình Ðại, được công an cộng sản thỏa thuận/deal với giá 2 lượng vàng mỗi người đi, vị chi là 8000 cây vàng cho số 4000 người mà công an phải giao cho nhóm điều khiển tàu Panama trước khi tàu nhổ neo. Cũng theo giải pháp này, tất cả chủ ghe của 12 chiếc ghe đóng xong phải giao cho nhà nước cộng sản. Làm một bài toán, nhà nước cộng sản Việt Nam ngồi không vẫn thu được 8 lượng vàng x 4000 = 32.000 lượng, cộng với 12 chiếc ghe đóng sẵn có đầy đủ phương tiện hải hành sẵn sàng ra đi.( Sau khi chi 2 lượng mỗi đầu người cho tàu lớn...)
Chấp nhận giải pháp được chuyển qua tàu sắt vì nghĩ sẽ được an toàn hơn trên biển, hàng 4 ngàn người đồng ý qua tàu Panama, nằm đầy các hầm tàu và boang tàu. Rồi ngày một, ngày hai... tàu không nhổ neo. Khi công an cộng sản nắm được trong tay toàn bộ số vàng khổng lồ và 12 chiếc ghe hiến lại, họ trở mặt, không thi hành những điều giao ước với tàu Panama.
Tình trạng kỳ kèo nhùng nhằng này kéo dài gần cả nửa tháng, hàng ngàn người sống chen chúc, đói khát, mất vệ sinh dưới các hầm tàu lâm vào tình trạng sống dở chết dở tuyệt vọng. Các toán công an cộng sản bắt đầu màn trấn lột vô lương kế tiếp, tàn nhẫn, lạnh lùng: họ bán từng gói thức ăn, từng lon nước uống để lột từng chỉ vàng còn sót lại của đồng bào theo kiểu "tiền trao, cháo múc", họ thả xuống hầm tàu một sợ dây cột cai lon hay chiếc móc để khi kéo lên một khâu vàng, họ mới thả xuống một lon nước hay một gói thức ăn. Màn vơ vét này có chỉ thị của bộ Nội Vụ cộng sản hay chỉ là chuyện lợi dụng của công an cấp dưới, không ai biết, nhưng nó quả đã diễn ra trước mũi công an cấp trên, công khai và tàn nhẫn. Trong thời gian đó, nhiều trẻ em và người già đã chết, và xác bị vứt xuống biển một cách lạnh lùng, không kể số người lã liệt, bệnh tật, đói khát rũ liệt đầy khoang tàu.
Không biết giữa tàu Panama và công an Bến Tre kèn cựa ra sao, công an lại trở mặt thông báo cho các nhóm tổ chức đăng ký, đòi thêm mỗi đầu người một cây vàng thì tàu mới nhổ neo ra đi. Ai còn vàng thì đóng tại chỗ, ai không vàng thì cử đại diện, mỗi người viết một cái thư cho gia đình, công an chở về Sài Gòn, gia đình cung cấp thêm hay vay mượn nộp cho đủ. Thế nhưng sau đợt vét hàng ngàn lượng vàng sau cùng này, cộng sản cũng không giao số lượng vàng mà họ thỏa thuận cho nhóm người điều khiển tàu Panama, và tàu Panama đã quyết định rời bến không chở theo bất cứ một thuyền nhân nào.
Truớc quyết định này của tàu Panama, công an Bến Tre không nhượng bộ, họ quyết định ăn hết số vàng thu được, vì nạn nhân là hàng ngàn người Việt Nam mà đa số là người Hoa... đối với cộng sản Việt Nam chỉ là cỏ rác. Hai Chiến, trung tá công an và các giới chức công an Bến Tre, có thể cả trung ương đảng ở Hà Nội, đã tìm cái cớ để chuyển hết thuyền nhân đăng ký ra khỏi tàu để tập trung ở An Nhơn, Thạnh Phú.
Cái lý cớ ngụy tạo đó là: Có bọn phản động trong đám thuyền nhân. Hàng ngàn người lũ lượt chen chúc, vật vờ, bệnh hoạn đói khát như những thây ma được cộng sản dùng những ghe đăng ký đã đóng sẳn và để lại cho họ, bốc khỏi tàu Panama và chuyển lên bờ, nhốt tập trung ở An Nhơn, Thạnh Phú... Thuyền nhân lên lại đất liền như những như những người sắp chết, họ quá đói, họ quá yếu, họ ăn cả củ non, ăn cả chuối sống và nhiều người đã chết sau đó vì bệnh hoạn tiêu chảy, thổ tả....
Ðể cho "gánh nặng người" sau khi đã bị trấn lột sạch tan biến dần, công an thả lỏng sự kiểm soát cho ai muốn trốn thì trốn, hoặc giả họ không còn nhu cầu giam giữ sau khi kế hoạch tận thu vàng đã thành công, hoặc giả công an không đủ nhân lực để kiểm soát hàng ngàn người tá túc gần như ăn xin ở An Nhơn, Thạnh Phú và các xã lân cận... Số người sống sót sau cơn ác mộng tìm cách trốn về Sài Gòn hay về quê cũ.
Tàu Panama đã ra khơi.
Hàng ngàn người ở lại phờ phạc, đau ốm, đói khát,trốn chui, trốn nhủi... để thảm kịch Bình Ðại, Bến Tre của chuyến đi đăng ký không thành tan biến, phai mờ dần trong câm nín và uất hận của nạn nhân, và của cả đồng bào Việt Nam trong vùng, những người đã âm thầm chia cơm xẻ áo, dang tay bảo bọc và giúp đỡ đồng bào nạn nhân khốn khổ. Biết bao nước mắt đã đổ ra trong những đêm bà con tâm sự cùng nhau. Cái ghê gớm kinh người của cộng sản Việt Nam là ở chỗ đó.
Theo ước đoán của đồng bào địa phương tại .... Bến Tre thì trong 2 năm 1978 và 1979, số người chết vì bị vỡ tàu tại cửa biển có khoảng từ 5 đến 8 ngàn người tại cửa Ba Lai, Bình Ðại... mà đa số là ghe tàu vỡ chìm đều do mìn nổ trong hầm máy. Người chịu trách nhiệm cho các "chiến dịch" vét vàng và giết người tàn độc này là trung tá công an Hai Chiến, phó công an tỉnh Bến Tre thời đó. Ngoài những chia chác tại địa phương, số vàng vét được từ những vụ ghe tàu đăng ký vượt biên cho đi lọt, hay bị thảm sát, riêng chỉ tại Bến Tre, số vàng chuyển ra Hà Nội cũng là con số khổng lồ mà khó ai biết được chính xác bao nhiêu.
Tại sao họ dám làm chuyện tày trời đó? Dường như sau 1975, khi người và đảng cộng sản Việt Nam vỗ ngực, ưỡn ra đại dương gào thét "đảng cộng sản Việt Nam vô địch, bách chiến bách thắng, đánh bại một lèo ba đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ..." thì phần còn lại của trái đất dưới mắt họ bỗng nhỏ lại, nhỏ hơn nước Việt Nam mà họ mới vừa thống trị toàn vẹn, "nhân loại và nước Mỹ im thin thít trước chiến thắng vĩ đại của đảng ta" (!)... Và từ đó họ nghĩ họ là con mãnh sư vô địch giữa rừng Phi châu toàn là nai non khật khờ, không cần dư luận thế giới, nên họ có thể ra tay làm bất cứ điều gì... mà không sợ bất cứ ai hài tội.
wow lần đầu nghe phokhuya kể về chuyện này đó ! wow really good info.
Nạn nhân bị trói bằng đủ loại dây, kể cả dây kẽm gai
Không phải Ðức Quốc Xã ; Không phải Khờ Me Ðỏ ;
Mà là tội ác cộng sản Việt Nam tại Khe Ðá Mài 1968
Người dân các thành phố còn đang yên giấc, đạn pháo kích của cộng sản dội lên đầu họ, đạn AK, B40, thượng liên, trung liên lựu đạn xả vào nhà họ ... Những vũng máu, những xác chết thi nhau đổ xuống ngay trong đêm Giao Thừa và những ngày Nguyên Ðán. Không phải chỉ là những cái chết do tên bay, đạn lạc. Có rất nhiều người, già trẻ, lớn bé, đàn ông, phụ nữ, nhất là tại Huế đã bị quân đội cộng sản gọi ra trước sân nhà rồi xả súng sát hại ... Họ chết mà cũng không hiểu tại sao bị giết. Ðó là những cái chết tức tưởi.
Oan khiên ngập trời ! Người Việt Nam cũng như cả thế giới đều không thể hiểu nổi sự hung bạo của quân cộng sản tại Huế. Có người cho rằng vì cán binh cộng sản tưởng rằng khi họ kéo quân vào thành phố, sẽ được đồng bào ra hoan hô, đón mừng, tiếp tế, dẫn đường ... ; nhưng khi tới nơi thấy đồng bào chạy trốn nên họ cho là phản động và ra tay sát hại không thương xót.
Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội thường khoe khoang về "quân đội anh hùng" của họ. Than ôi, không có thứ anh hùng nào mà bắn vào đàn bà trẻ con, bắn vào thường dân vô tội, bắn vào những người đang bị trói tay, trói chân ...
Ðây quả là mối nhục ngàn đời của quân đội cộng sản.
Lịch sử không bao giờ quên được tội ác này.
Cám ơn phokhuya đã post bài này. Không phải để trả treo với lũ ngu xuẩn mà đến giờ này, thế kỷ 21, thời đại Internet, vẫn còn bám khư khư và ca ngợi cái chủ nghĩa ngu xuẩn, gian manh, tàn ác của lũ thú đội lốt người. Mà những bài viết như trên có giá trị lịch sử cho lớp con, em cháu chúng ta, để chúng không bị lừa gạt như thế hệ cha anh của chúng.
Đức Quốc Xã bị cả Thế Giới lên án là quá tàn ác. Nhưng, so với Cộng Sản thì Đức Quốc Xã chỉ là trò trẻ con. Vì, cái tàn ác, vô nhân đạo của Cộng Sản, ngay chính mình đã từng trải qua, mà còn không tin được ở mắt mình thấy, huống hồ kể lại cho cả Thế Giới nghe. Vì, làm sao người ta có thể tin được có loại người nào có thể tàn ác với ngay chính đồng bào của mình như vậy? Xin chân thành cám ơn phokhuya và xin cúi đầu tưởng niệm những người đã bỏ mình vì lũ tội đồ dân tộc.
Những câu chuyện hư cấu , những hình ảnh tra tấn được vẻ và dùng photoshop chắc không dấu được ai ? thời đại ict mà nhưng ... những nét vẻ khác xa những tấm hình chụp, cái lưởi bọn CS thì như loài rắn độc... chớ mà tin.
Tù binh CSBV được trả lại về Bắc đa số đã van xin đừng đưa họ về Bắc... điều này không được tiết lộ. Chúng thanh toán nhau trong trại giam một cách rất dã man chỉ vì nghi ngờ lẫn nhau, phân chia thành phần VC miền nam kết và quân BV thôi như: đóng đủa vào lổ tai, vào mắt... thành phần lãnh đạo vẫn là người Bắc Kỳ như chính quyền VNCS bây giờ, tụi miền Nam vẫn là phó...
Đám tập kết ra Bắc về kể lại, khi gia đình họ ở nông thôn miền Nam quần lãnh bóng mượt, làm ruộng thì đi bằng xe đạp (1950-1960) đễ radio trên bờ ruộng vừa làm vừa nghe cải lương, chúng đã bị "CSBV xúi ăn cứt gà" khi chứng kiến dân miền Bắc phải ăn cây chuối non, củ chuối, ngô khoai trộn với cám lợn... trong khi chúng phải vượt trường sơn ra Bắc bỏ mạng không ít vì bệnh tật, bom đạn... khi trở về Nam hoạt động thì như bị đưa vào địa ngục, bom đạn chết chóc, bệnh tật, tơi bời... gia đình chúng còn phải tiếp tế gạo, tiền, thuốc men,xe đạp, vải xồ... một dấu hỏi rất to lớn cho tất cả những người đi tập kết: ai cần ai giải phóng? Hồi chánh thì cả gia đình sẻ bị thủ tiêu... Bọn này như kẻ đã lở ăn phải bã độc chỉ chờ ngày chết, 1968 bị CSBV tung vào cuộc tổng tấn công, đám MTGPMN này bị nướng gần 20.000 người du kích, dân công... đó là cách tiêu diệt thành phần có thể chống đối chúng, đợt 2 năm 1968 MTGPMN này bị nướng gần 5000 mạng người.
==================GÕ TIẾNG VIỆT==================== == Hảy thể hiện mình là người Việt bằng cách viết tiếng Việt:
Gõ Tiếng Việt Có Dấu Online từ Mọi Nơi và Mọi Máy PC hay Apple/Mac
http://angeltech.us/viet-anywhere/
tôi hoàn toàn đồng ý với phokhuya về bài post nầy ,vì tôi là dân bến tre( xa thới thuận ) tôi đả chứng kiến chuyện nầy ,mấy năm đó xác chết trôi sông nhiều còn hơn là rong biển nửa ,cái nầy là 100 phần 100 có thiệt ,trên thế gian nầy không có cái gì mà khốn nạn hơn cái đám CS nầy đâu ,chúng còn gạt dân xuống ghe gom hết vàng rồi cho đi ,nhưng trong ghe không có cái gì để sống trên biển cả ,cuối cùng thì dân đen phải quay vào bờ cho chúng nó bắt nhốt còn hơn là chết đói trên biển ,tội ác của lủ súc sanh nầy kể không bao giờ hết được V.V.V.
Đừng tin những gì Việt cộng bịa đặt, mà nhìn kỷ những gì Việt cộng làm để căm thù Việt cộng. VNCH thời đó đã là một nước văn minh. Chứ không mang rợ như VC thời đó cũng như bây giờ.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.