Địa y là một dạng sống đặc biệt được tạo thành nhờ sự kết hợp giữa tảo lục hoặc vi khuẩn lam với một loại nấm trong một quan hệ đôi bên cùng có lợi. Chúng có khả năng tồn tại trong những điều kiện rất khắc nghiệt.
Địa y cam (Caloplaca verruculifera) dài 5-10 cm, xuất hiện trên đá ở các vùng bờ biển lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ, thường gần nơi chim đậu. Loài địa y này có các thùy tỏa tròn, ở giữa là thể quả mở (đĩa sản sinh bào tử).
Địa y mắt vàng (Teloschistes chrysophthalmus) dài 3-8 cm, phân bố ở lục địa Á - Âu, châu Mỹ và các vùng nhiệt đới. Loài địa y nguy cấp này mọc trên cây bụi và cây gỗ nhỏ trong các vườn cây ăn quả và bờ giậu. Các thùy phân nhánh của chúng tạo ra đĩa lớn màu cam.
Địa y râu (Usnea filipendula) dài 5-15 cm, phân bố ở các vùng núi phía Bắc của Bắc bán cầu. Chúng tạo thành búi màu xanh lòng thòng rủ xuống từ cây gỗ. Các thể quả mở có gai hình thành ở phần ngọn.
Địa y tuần lộc (Cladonia portentosa) dài 3-10 cm, phổ biến ở các truông và bãi hoang có cây bụi ở phía Bắc của Bắc Mỹ và lục địa Á - Âu. Loài này có các cành rỗng, mảnh, phân nhánh nhiều lần. Chúng và các họ hàng gần là thức ăn của loài tuần lộc.
Địa y que diêm (Cladonia floerkeana) dài 1-5 cm, phổ biến trên đất than bùn ở lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng có dạng vỏ tạo nên từ nhiều vảy xám xanh, từ đó mọc lên những cuống có thể quả mở màu đỏ tươi ở ngọn.
Địa y san hô (Sphaerophorus globosus) dài 3-10 cm, sống trên đá ở các vùng núi Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng có dạng cành màu nâu hồng kết thành đám dày và có thể quả mở hình cầu.
Địa y sụn (Ramalina fraxinea) dài 3-10 cm, sinh trưởng trên cây gỗ ở lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng có cành dẹt mà xanh xám lấm tấm những thể quả mở.
Địa y bản đồ (Rhizocarpon geographicum) dài 5-65 mm, phổ biến trên đá ở các vùng núi phương Bắc và châu Nam Cực. Loài địa y này có dạng mảng dẹt, có bào tử bao quanh tạo thành đường viền đen. Các nhóm của chúng trông như những miếng vá trên đá.
Địa y khiên đen (Tephromela atra) dài 3-10 cm, xuất hiện trên đá lộ thiên ở lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng có những thùy dạng vỏ màu xám nhạt trông như cháo khô và thể quả mở màu đen.
Địa y tường đá vành tròn (Lecanora muralis) dài 3-10 cm, thường mọc trên bề mặt bê tông và đá ở lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng có các thùy màu lục xám xòe ra ngoài.
Địa y hắc ín (Verrucaria maura) dài 5-50 cm, xuất hiện trên đá dọc bờ biển lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Loài này có dạng vỏ rạn màu xám đen chứa các thể quả mở.
Địa y nhầy giộp (Collema furfuraceum) dài 3-5 cm, xuất hiện trên đá và cây gỗ ở khu vực có lượng mưa lớn của lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng có các thùy dẹt, nhăn nheo, dạng keo sệt.
Địa y vỏ vân chữ (Graphis scripta) dài 5-10 cm, thường thấy trên vỏ cây gỗ ở lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Loài này có dạng vỏ mỏng, màu xanh xám, có những khe nhỏ như ký tự trên bề mặt.
Địa y đá da bò (Lasallia pustulata) dài 5-20 cm, hình thành những tập đoàn trên đá giàu dinh dưỡng ở ở khu vực ven biển hoặcvùng núi của lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Mặt trên loài địa y này màu nâu xám, có nhiều nốt mụn hình oval.
Địa y Baeomyces rufus dài 3-13 cm, phân bố ở lục địa Á - Âu và Bắc Mỹ. Chúng tạo thành vỏ màu xanh xám trên đất pha cát và đá, có những thể quả hình bóng màu nâu trên những cuống cao vài mm.