Kể từ khi vụ 39 người chết trên xe tải vào Anh xảy ra đă phơi bày toàn bộ cuộc sống của 1 bộ phận lớn người Vn đang chờ vào Anh. Được biết trước khi vào Anh họ phải tập trung chờ ở Pháp trong hoàn cảnh sinh hoạt thiếu thốn và tạm bợ. Thế nhưng điều này không đủ giảm quyết tâm sang Anh của họ.Trong khốn cùng và nguy hiểm, người Việt chờ vượt biên tại Calais bám víu lấy nhau và nhờ các t́nh nguyện viên Pháp giúp đỡ để ẩn ḿnh càng sâu càng tốt.
“Không hề có bạo lực, chúng tôi tự tổ chức rất kỷ luật. Người tháo vát nhất được lựa chọn để quản lư tiền mua thực phẩm. Có người đi chợ, có người nấu ăn. Thứ bảy không có xe tải qua, chúng tôi liên hoan nho nhỏ”, Chinh kể về cuộc sống ở Vietnam City, nơi người Việt từng sống tập trung từ 2008-2018, ṃn mỏi đợi những chuyến xe sang Anh.
Chinh là một trong những người mà nhóm nghiên cứu của tổ chức France Terre d’Asile gặp gỡ tại Trung tâm tạm giữ người nhập cư trái phép Coquelles hồi năm 2017, khi họ thực hiện nghiên cứu Đường tới Anh quốc: Điều tra thực địa di dân Việt Nam.
“Cư dân quanh đấy cũng tốt lắm, họ cho chúng tôi tắm giặt mỗi chủ nhật và chúng tôi c̣n được chơi thể thao”, Chinh nói.
Các di dân Việt đă và đang sống như vậy, “tàng h́nh trong hữu h́nh” để tồn tại giữa những nguy hiểm luôn chực chờ.
"Vừa kỳ diệu, vừa thấy xót xa"
Dù nằm trong khu rừng c̣n những tàn tích từ thời Thế chiến I, Vietnam City không giống mọi khu trại tập trung di dân chờ vượt biên khác.
Người dân Angres và chính quyền địa phương giàu ḷng trắc ẩn đă cho họ chỗ trú trong khu mỏ cũ. Nước do bà Thị trưởng Maryse Roger-Coupin (lúc đó) cung cấp, củi để đốt ḷ sưởi và hệ thống điện do Hội hữu ái di dân tài trợ.
Trong các gian nhà xiêu vẹo có giường tầng đầy đủ, nam nữ ngủ riêng. Thậm chí dụng cụ tập thể thao cũng được t́nh nguyện viên đóng góp. Khu trại sạch sẽ và được sắp xếp hợp lư, với gian bếp, dây phơi quần áo và không gian sinh hoạt chung. Bàn thờ đặt tượng Phật, nhang khói và hoa quả luôn sẵn sàng.
“Khoảng tháng 8/2008, cư dân t́m thấy nhiều người Việt sắp chết đói đang vật vờ tại cánh đồng gần đường cao tốc, dưới những cái lều bằng túi rác. Chúng tôi tưởng là người Trung Quốc”, một t́nh nguyện viên kể với France Terre d’Asile.
“Trước họ, cuối những năm 1990 th́ có người Kosovo lai văng. Dần dần một nhóm người địa phương có được ḷng tin của những di dân này. Họ thường mang súp, nước và chăn tới, thậm chí mời phụ nữ Việt về nhà tắm rửa”, nữ t́nh nguyện viên cho hay.
Tới tháng 12/2008, những mối thân t́nh thực sự được kết thành giữa cư dân địa phương và di dân Việt. Họ đón Tết với nhau, cùng ra ngoài xem các trận bóng đá của đội RC Lens, cùng đi chơi khám phá vùng quanh Angres. Di dân Việt c̣n được dẫn đi tập gym, tham gia giải đạp xe 400km chia làm tám chặng, do vài tổ chức đăng cai nhằm “bảo vệ quyền của người lưu vong”.
Khoảng 100 t́nh nguyện viên đă giúp “khu rừng” trở nên có sức sống và an toàn hơn. Từ tháng 1/2016, tổ chức Gynécologues sans frontières (GSF) tới trại vào thứ ba hàng tuần để khám sức khỏe định kỳ cho di dân Việt, đặc biệt là di dân nữ.
“Nh́n những phụ nữ và đàn ông sống trong rừng, cùng cực, bất hợp pháp, ngồi xem đá bóng bên các cổ động viên vào buổi tối, vỗ tay, cảm xúc như họ… Ta vừa thấy kỳ diệu, vừa thấy xót xa”, Olivier Thomas, thành viên Hội hữu ái di dân, chia sẻ.
An phận là an toàn
“Vietnam City như chỗ dừng tạm, một khoảnh khắc yên b́nh, nơi di dân có thể nghỉ ngơi sau hành tŕnh dài khó khăn, đôi khi kéo dài đến hai năm nếu họ phải đi qua Đông Âu”, Carine Brunet, đại diện GSF tại Angres, cho hay.
Một phụ nữ Việt Nam đă sang Anh thành công và giữ liên lạc với Brunet qua Facebook tâm sự cùng bà rằng cô rất “nhớ không khí trong trại”.
Dẫu muôn vàn nguy hiểm từ các trại di dân của các quốc gia khác đặt gần đó, “trại hoạt động tốt chính là bởi chỉ bao gồm người Việt và do người Việt quản”, Carine Brunet giải thích. “Người Việt sống rất biết điều, ḥa nhă và trân trọng sự giúp đỡ của chúng tôi”.Nhân viên GSF thường được tiếp đón nồng hậu tại Vietnam City và thỉnh thoảng c̣n ở lại dùng bữa với di dân. Ngay cả những kẻ buôn người, đưa di dân vượt biên cũng tỏ ra thân thiện và tạo điều kiện cho các t́nh nguyện viên làm việc. Tuy nhiên, Brunet dễ dàng nhận thấy trong trại, mọi phát ngôn đều bị kiểm soát và di dân phải rất thận trọng, nhất là với người không quen biết.
"Trong sân, vài thanh niên chơi bóng bàn, vài người khác chơi cờ vua, trong khi một nhóm phụ nữ vừa rửa bát xong. Khi chúng tôi đến, những tiếng cười vụt tắt, phụ nữ lánh vào trong nhà, mọi người đều nh́n chúng tôi đầy nghi ngờ và sợ hăi", tiến sĩ Danielle Tan kể lại lần đầu thăm Vietnam City.
Không khí chỉ giăn ra đôi phần khi bạn đồng hành của Tan trấn an mọi người và hỏi han xem có ai từng cùng giáo xứ với cô ở Việt Nam. Họ mang hoa quả ra mời di dân trong trại.
"Không ai nói ǵ trừ người có vẻ là 'đứng đầu' khu trại. Ông ta mời chúng tôi cà phê và cho biết trại có khoảng hai chục giáo dân. Nhiều người vây quanh bạn tôi để cô không di chuyển quanh trại", Danielle Tan viết trong báo cáo của ḿnh cho France Terre d’Asile.
Tan và bạn bà trao đổi với các di dân về cuộc sống của họ, về mong muốn, khó khăn… nhưng chỉ sau hai giờ nói chuyện, không khí lại trở nên căng thẳng. Người “đứng đầu” trại trở nên hung hăng, mất kiên nhẫn: “Nếu các người không thể giúp chúng tôi t́m việc, th́ đừng hỏi han nữa!”.
Phụ nữ và trẻ vị thành niên là mong manh, khó bảo vệ nhất
Lúc ra về, Tan và bạn bà để lại số điện thoại. “Một giờ sau, một phụ nữ gọi điện và báo với chúng tôi rằng cô chậm kỳ kinh nguyệt đă hai tuần. Cô muốn bỏ đứa trẻ nhưng không thể nói với những người ‘giúp’ vượt biên bởi sợ bị bỏ lại. Cô ấy nhất định đến Anh bằng mọi giá, để trả nợ”, Tan kể. “Chúng tôi đề nghị cô ấy gọi lại vào chủ nhật khi đi tắm ở nhà t́nh nguyện viên và nhờ t́nh nguyện viên đó giúp đỡ, t́m giải pháp cho cô gái bất hạnh”.
Carine Brunet nhớ có lần, một di dân làm phiên dịch giúp bà đă tiết lộ về trường hợp một cô gái trẻ bị cưỡng hiếp tại Nga, và khi tới Vietnam City th́ đă có thai hai tháng. Cô không nói ǵ với GSF và hiện sống tại Anh. Brunet hỏi tại sao người đàn ông đó không kể cho bà ngay, th́ ông trả lời: “Lúc đó tôi chưa hiểu ǵ về bà cả”.
Theo các tờ khai của di dân, Brunet ước tính trại chỉ có 10% phụ nữ. Vài trẻ vị thành niên trong khoảng 16-17 tuổi, nhưng rất khó để đoán định v́ chúng không khai tuổi thật bao giờ. Brunet chỉ mới can thiệp được hai ca mang thai và kê đơn thuốc cho ba phụ nữ trẻ.
“Họ không nói nhu cầu. Họ chỉ chấp nhận khi chúng tôi nhấn mạnh thuốc là để giúp họ điều ḥa chu kỳ”, Brunet cho biết. Ở Vietnam City, mọi cái thai đều là ngoài ư muốn.
Một lần khác, Carine Brunet gặp một cô bé 12 tuổi, bị giữ ở Calais nhưng sau đó trốn thoát, taxi đưa cô bé tới Angres. Sau hai tuần, cô bé sang Anh thành công.
Một t́nh nguyện viên gốc Việt liên hệ với gia đ́nh cô bé ở Việt Nam để cảnh báo về t́nh trạng của đứa trẻ, nhưng gia đ́nh này chẳng thấy có vấn đề ǵ khi gửi con gái nhỏ một thân một ḿnh đi xa như vậy, với họ đó lại là cơ may bởi cô bé có thể gặp được chị gái ở Anh.
“Cô bé rất may mắn và đă t́m được việc, thậm chí c̣n sang Đức để học nghề”, Brunet chia sẻ.
Sau này, bà biết được qua Facebook một t́nh nguyện viên rằng cô bé này đă yên ổn trong một tiệm làm móng.
Vietnam City tại Angres bị tháo dỡ hồi giữa 2018, người Việt mất đi một chỗ nương tựa, nhưng những giấc mơ Anh chưa bao giờ tắt.
Rất nhanh chóng, chỉ hai tuần sau, một “Vietnam City mới” đă mọc lên, nằm cách địa điểm cũ 45 km và gần đường cao tốc hơn.
Một phóng sự của BBC hồi tháng hai theo dấu di dân Việt tới nơi ở mới. Theo phóng viên Glen Campbell, mọi thứ trông vẫn rất tươm tất, ngăn nắp. “Vietnam City mới” tiếp tục là điểm dừng chân của những di dân Việt.
Ở đó, họ c̣n cộng đồng và các t́nh nguyện viên. C̣n sau này, khi đă bước chân lên những container xe tải, không ai chắc chắn được điều ǵ hết.
|
|