Run tay là t́nh trạng không hiếm gặp, thường do căng thẳng, mệt mỏi hoặc cũng có thể chỉ ra một số t́nh trạng sức khỏe tiềm ẩn.
Run là những cơn co thắt cơ không chủ ư, nhịp nhàng, ngoài tầm kiểm soát, thường xảy ra ở một số bộ phận như bàn tay, cánh tay, đầu, bàn chân, thanh quản... Những cơn co thắt này đa số xảy ra ở mức độ nhẹ, có thể không nh́n thấy khi thay đổi hoặc duy tŕ ở một tư thế quá lâu. Chứng run tay có thể dễ nhận thấy hơn khi một người duỗi thẳng tay ra phía trước cơ thể hoặc khi căng thẳng, lo lắng.
Phân loại
Run khi nghỉ ngơi: Xảy ra khi các cơ thư giăn, kể cả khi đặt tay lên đùi.
Run khi vận động: Phổ biến hơn, xảy ra khi các cơ bị co lại do chuyển động có chủ ư.
Nguyên nhân
Run tay có thể là b́nh thường hoặc do t́nh trạng thần kinh, các vấn đề sức khỏe khác hoặc do sử dụng thuốc. Dưới đây là một số nguyên nhân có thể gây run tay.
Run sinh lư tăng cường
Run sinh lư tăng cường (EPT) là nguyên nhân phổ biến nhất. Nó thường ảnh hưởng đến bàn tay, ngón tay ở cả hai bên cơ thể. Một số yếu tố có thể làm trầm trọng thêm EPT ở một số người như căng thẳng, lo lắng, mệt mỏi, thiếu ngủ, uống quá nhiều caffeine, tập thể dục quá sức, bệnh cường giáp.
Run sinh lư tăng cường không cần điều trị y tế, trừ khi nó ảnh hưởng đến công việc hoặc các hoạt động thường ngày khác.
T́nh trạng thần kinh
Run tay nói cũng có thể do vấn đề nằm ở phần sâu của năo, chịu trách nhiệm kiểm soát chuyển động.
Bệnh đa xơ cứng (MS): Nhiều người mắc bệnh này bị run tay ở một mức độ nào đó. Đa cơ xơ cứng xảy ra khi hệ thần kinh trung ương kiểm soát chuyển động bị tổn thương.
Bệnh Parkinson (PD): Khoảng 75% số người mắc bệnh Parkinson bị run tay lúc đang nghỉ ngơi, vận động hoặc cả hai. Run rẩy thường bắt đầu ở một bên tay và có thể lan sang bên đối diện, rơ rệt hơn khi căng thẳng hoặc xúc động mạnh.
Đột quỵ: Sau đột quỵ, người bệnh có thể xuất hiện nhiều loại run tùy thuộc vào khu vực bị ảnh hưởng. Tổn thương hạch nền gây run khi nghỉ, trong khi tổn thương ở tiểu năo gây run vận động.
Chấn thương sọ năo (TBI): Run tay do hậu quả của TBI được gọi là run sau chấn thương, xảy ra do tổn thương ở các vùng năo cụ thể chịu trách nhiệm vận động.
Rối loạn trương lực cơ: Những cơn run xảy ra ở những người mắc chứng loạn trương lực cơ thường không đều, thường ảnh hưởng đến bàn tay.
T́nh trạng sức khoẻ khác
Các t́nh trạng sức khỏe sau đây cũng có thể gây ra run tay:
Lạm dụng hoặc cai rượu.
Ngộ độc thủy ngân.
Bệnh cường giáp.
Suy gan hoặc thận.
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương.
Rối loạn thoái hóa di truyền.
Thuốc
Một số loại thuốc cũng có thể gây run tay, bao gồm:
Thuốc điều trị hen suyễn.
Thuốc điều trị bệnh tâm thần (chống trầm cảm, ổn định tâm trạng).
Thuốc chống loạn nhịp tim.
Thuốc trị ung thư.
Thuốc ức chế hệ thống miễn dịch.
Điều trị
Run tay do căng thẳng, lo lắng hoặc ngủ không đủ giấc là b́nh thường, Nếu nó không ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày thường không đáng lo ngại. Tuy nhiên, nếu run tay nghiêm trọng hoặc dai dẳng, gây cản trở hoạt động hàng ngày, cần được điều trị sớm.
Thuốc
Một số thuốc có thể giúp giảm tần suất và mức độ nghiêm trọng của chứng run, bao gồm:
Thuốc chẹn beta.
Thuốc lo âu.
Thuốc chống động kinh.
Thuốc an thần.
Phẫu thuật
Trong những trường hợp nghiêm trọng khi dùng thuốc và các phương pháp điều trị khác không hiệu quả, các lựa chọn phẫu thuật như kích thích năo sâu (DBS) hoặc cắt bỏ tần số vô tuyến có thể được khuyến nghị.
Các biện pháp tự nhiên
Thay đổi lối sống: Tránh tập thể dục quá mạnh, uống quá nhiều rượu, các chất kích thích, chẳng hạn như caffeine và amphetamine.
Kỹ thuật tâm lư: Các kỹ thuật thư giăn, chẳng hạn như các bài tập chánh niệm và thở có thể phù hợp trong trường hợp run do lo lắng hoặc hoảng loạn.
Vật lư trị liệu: Các bài tập kiểm soát cơ bắp, phối hợp hoạt động và sức mạnh có thể giúp ích.
|