Những người luôn cố nhắc nhở bản thân rằng họ luôn yên ổn, hạnh phúc khi ở một ḿnh hơn là coi trọng một người nào khác - v́ bên trong họ dù khao khát có được t́nh yêu và sự quan tâm nhưng lại sợ mất đi sự tự do, hay hơn nữa là sợ bản thân lặp lại sai lầm cũ khi c̣n nhỏ: mong cầu có được sự quan tâm từ người lớn nhưng bị khước từ.
Với những người mang mối gắn kết né tránh, họ dường như luôn sử dụng một vài hoặc hàng loạt các hành vi ḥng ḱm nén hệ thống gắn bó - một cơ chế sinh học trong năo chịu trách nhiệm cho mong muốn gần gũi giữa ta và người khác. Dù cho tận sâu bên trong, họ mong muốn được gần gũi, được yêu thương, nhưng lạ cố gắng “bơ” hoặc cố t́nh tránh xa nhu cầu ấy để tránh việc bản thân bị tổn thương..
Theo đó, những người trẻ mang phải dạng tính cách này sẽ gặp trở ngại trong việc phát triển một mối quan hệ lành mạnh với những ranh giới trong t́nh cảm, v́ việc phải tin tưởng hay thổ lộ những tâm sự sâu sắc nhất trong ḷng cho người khác đối với họ quá khó khăn. Cũng như ở bài viết về nỗi sợ bị bỏ rơi, chủ đề này sẽ xoáy vào những người tỏ ra né tránh hoặc không thể cảm nhận sự thân mật ở một mối quan hệ. V́ sâu thẳm bên trong họ, đối diện với những mối ràng buộc t́nh cảm sâu sắc có nghĩa là một lần nữa cho thế giới này một cơ hội làm tổn thương họ. Họ h́nh thành một thói quen “đóng cửa trái tim” quá lâu, đến mức nó trở thành một phần tính cách bên trong họ từ khi nào không hay biết.
TẠI SAO CÓ NHỮNG NGƯỜI VƯỢT QUA NỖI ĐAU CHIA TAY HAY DƯỜNG NHƯ “KHÔNG BAO GIỜ THẤT T̀NH” ?
Có những người dường như chấp nhận việc chia tay với người yêu dù gắn bó dài ngày, họ thậm chí c̣n thực sự vui vẻ và hạnh phúc hơn rất nhiều sau khi chia tay dù t́nh yêu của họ đă từng rất đẹp. Với những người mang gắn kết tránh né, họ thường sẽ có xu hướng chọn lựa bước vào những mối quan hệ mà không suy màng nhiều đến tương lai. Họ có thể sẽ chọn người yêu theo một cách đầy pḥng vệ, đó có thể đó là một người ở xa và họ không có nhu cầu chuyển đến nơi đó, một người đă có gia đ́nh, một người mà họ thấy từ đầu rằng đó không phải là người mà họ muốn sống cùng cả đời,..
Những đứa trẻ từ nhỏ lớn lên trong gia đ́nh không gần gũi với bố mẹ, hoặc khi chúng cần - bố mẹ không xuất hiện bên cạnh v́ lí do cuộc sống. Khi lớn lên, chúng học được cách giấu che đi cảm xúc và có xu hướng tránh né sự thân mật hoặc t́nh yêu sâu sắc v́ tận bên trong chúng không hiểu được thế nào là t́nh yêu và quan tâm thực sự. Hoặc như, chúng không tin vào điều đó. Họ yêu đương nhiệt t́nh nhưng lại hời hợt, dường như chính bản thân họ cũng tưởng rằng ḿnh đang yêu rất sâu đậm, nhưng thực ra họ luôn chừa một khoảng trống bên trong tâm hồn - như một cánh cửa để bản thân sẵn sàng trong tâm thế rút lui nếu cảm thấy trái tim họ có khả năng bị thương tổn cận kề.
HỌ THẬM CHÍ RẤT DỄ DÀNG RƠI VÀO MỐI QUAN HỆ VỚI NGƯỜI MỚI RẤT NHANH như một cách để vượt qua cảm giác bối rối và trống rỗng sau khi chia tay, và dường như, họ rẩt dễ mắc thêm các sai lầm tương tự trong t́nh yêu hết lần này đến lần khác.
NỖI SỢ ĐÁNH MẤT ĐI SỰ TỰ DO
Với những người mang trong ḿnh mối gắn kết tránh né, họ khao khát được kết nối tâm hồn với người khác nhưng sâu bên trong họ sợ mất đi sự tự do được làm chính ḿnh. Họ sợ phải chia sẻ cảm xúc thực sự, họ sợ phải bày tỏ nhu cầu được yêu thương nhiều hơn người khác, họ sợ rằng bản thân khao khát quá nhiều, họ sợ rằng bản thân không thể làm theo nhu cầu và mong muốn của người khác - v́ họ luôn trong trạng thái pḥng vệ cho chính ḿnh. Thậm chí nhiều người mang liên kết tránh né c̣n mong rằng bản thân sẽ “được” người yêu chia tay trước để bản thân có thể thoát khỏi cảm giác tội lỗi và sự cách ngăn khó phá vỡ của bản thân ḿnh.
TỪ CHỐI T̀NH YÊU ĐỂ NÉ TRÁNH TỔN THƯƠNG
Sâu bên trong, v́ những sang chấn tâm lư thời thơ ấu, dù bên ngoài có tỏ ra độc lập mạnh mẽ như thế nào = họ vẫn mang 1 vài suy nghĩ rằng bản thân ḿnh không hiểu t́nh yêu, hoặc cực đoan hơn, ḿnh không đáng có được t́nh yêu. Họ né tránh t́nh yêu để chính ḿnh không phải chịu dày ṿ - thứ mà họ luôn phải chịu đựng khi c̣n nhỏ v́ mong cầu sự quan tâm từ người lớn. Hoặc thậm chí cả khi họ được quan tâm, săn sóc từ người khác - họ vẫn tự dặn ḷng ḿnh rằng t́nh yêu đó không có thật, sự quan tâm ấy là hời hợt vô t́nh, họ cố t́m lấy lí do nào đó để khiến ḿnh không phải chú ư đến người kia quá nhiều.
Mỗi khi cơ chế pḥng vệ tâm lư xuất hiện, họ sẽ nghĩ về cơ số những điểm không tốt của đối phương, họ tập trung vào những điều họ không thích ở người kia, họ nghĩ về những thứ không thích hợp - để họ có thể tự “an ủi” bản thân khỏi sự mong chờ t́nh yêu từ người đó. Họ tự lừa dối chính ḿnh, nhờ vậy mà họ luôn có khả năng vượt qua các mối t́nh sâu đậm một cách thần ḱ.
Với những người mang gắn kết tránh né, cho dù xung quanh họ có bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu mối quan hệ gần gũi - họ dường như luôn có một khoảng cách nhất định với tất cả mọi người.
Họ là những người sẵn sàng chọn các mối quan hệ không rơ ràng, những mối quan hệ “friends with benefits” hay one-night-stands. Họ luôn không tin rằng người khác sẽ ở cạnh họ và chăm sóc yêu thương họ măi măi, nghĩ rằng có lẽ mối quan hệ nào cũng sẽ kết thúc, rằng không có t́nh yêu nào kéo dài măi măi. Giống như cách mà họ cảm nhận được từ bố mẹ trong quá khứ - một sự thiếu thốn t́nh thương và quan tâm cần thiết từ người ḿnh tin tưởng và thương yêu nhất.
Liệu điều ǵ sẽ xảy ra khi người mang nét tính cách này bị buộc phải đối diện và nh́n nhận cảm xúc tiêu cực của bản thân họ hay người khác?
Câu trả lời là họ sẽ muốn tự cô lập bản thân và bắt đầu hành xử một loạt các kiểu hành vi xa cách tránh né thân mật cơ thể như: nắm tay, ôm ấp và gần gũi cơ thể.
Họ cũng bắt đầu tránh xa các cuộc tṛ chuyện sâu sắc về vấn đề đó; họ từ chối trả lời những câu hỏi về tương lai của mối quan hệ; họ ngừng đề cập và sử dụng những từ ngữ thân mật như các câu nói “Anh yêu em”; hoặc sẽ hoàn toàn không lắng nghe và từ chối phản hồi lại cảm xúc của người kia.
VietBF@sưu tập