Nguồn Internet đă mang đến cho giới “đầu to mắt cận” một biển trời thông tin quư giá nhưng nó không cung cấp cho họ con thuyền nào cả, v́ thế không ai có thể "ngồi mát xơi bát vàng".
Là sinh viên học sinh, ai cũng phải trải qua một chặng đường dài học hỏi và nghiên cứu, đặc biệt là trong giai đoạn làm bài tập về nhà hoặc các bài tiểu luận, đồ án. Đó là lúc mà bạn phải mang toàn bộ kiến thức đă được học ra để ứng dụng vào bài viết của ḿnh. Đến đây lại nảy ra một vấn đề khác. Đó là không phải lúc đề tài quá rộng trong khi kiến thức lại hạn hẹp. Điều này bắt buộc sinh viên, học sinh phải t́m kiếm thêm các tài liệu trên mạng Internet để bù đắp lại cho những khoảng trống mênh mông.
Với sự trợ giúp của các công cụ t́m kiếm như Bing, Yahoo Search! hay đặc biệt là Google th́ rơ ràng việc t́m kiếm tài liệu với sinh viên, học sinh ngày nay không c̣n khó khăn như trước. Nếu như cách đây 20 năm, cảnh tượng thường thấy đó là các sinh viên lũ lượt vào thư viện đọc sách th́ ngày nay, điều đó đă có sự thay đổi. Nhiều người cũng vào thư viện nhưng chủ yếu là sử dụng mạng internet của trường để truy cập internet.
Thậm chí truy cập Internet ngay ở sân trường!
T́m kiếm tài liệu trên Internet tất nhiên là cực kỳ hữu dụng, điều đó không phải bàn căi v́ rơ ràng, không một kho thư viện nào trên thế giới có thể chứa được nhiều thông tin như mạng Internet. Chỉ cần thông qua việc t́m kiếm trên Google bằng một vài từ khóa đơn giản, sinh viên, học sinh có thể dễ dàng truy cập vào những bài viết học thuật có giá trị cao và mang tính chính xác tuyệt đối. Đề tài khó đến mấy cũng được giải quyết một cách nhanh gọn nhờ vào lượng thông tin dồi dào mà các công cụ t́m kiếm cung cấp.
Nh́n chung, điều này mang nhiều tác dụng tích cực hơn. Thay v́ phải lao đầu vào ṃ từng trang sách th́ sinh viên, học sinh chỉ cần t́m những đoạn quan trọng thông qua từ khóa trên Google (những bài viết chính xác cao thường được đẩy lên trên trang đầu tiên). Với những sinh viên đă, đang du học ở nước ngoài th́ đây là một trong những kỹ năng được nhà trường và giáo viên khuyến khích. Hải Vũ, du học sinh hiện đang học tại Đại học Monash, Melbourne (Úc) cho biết mỗi lần làm đề án, Google chính là công cụ đắc lực nhất của cậu.
“Trước khi bắt tay vào làm mỗi đề tài được giao, ở đây giáo viên đều bắt sinh viên phải tự ḿnh nghiên cứu. Nguồn thông tin có được chủ yếu thu thập ở trên Google. Thư viện cũng có nhiều nhưng ḿnh thích t́m trên Google hơn v́ nó đa dạng, số liệu cập nhật và t́m rất nhanh”.
Để hiểu rơ thêm về vấn đề này thông qua thực trạng của sinh viên, học sinh trong nước, chúng tôi đă may mắn hỏi chuyện được bạn Phạm Minh Thu, bí thư lớp A1 - K46 khoa quản trị kinh doanh Đại học Ngoại Thương Hà Nội. Theo cô nàng bí thư năng động này th́ bí quyết để thành công trong việc thu thập tài liệu trên mạng hoàn toàn là do kiến thức thu được từ trong quá tŕnh học: "Nếu một sinh viên không có chút kiến thức nền nào th́ chắc chắn, chẳng Google nào cứu cậu ấy khỏi bị đánh trượt được cả".
Thu cũng bày tỏ: "Khi phải làm những bài tập nhóm (group assignment), có một số bạn luôn copy từ tài liệu trên mạng và không chỉnh sửa ǵ, thậm chí c̣n sao chép y nguyên từ wikipedia. Điều này khiến cho các thành viên trong nhóm không khỏi bực ḿnh".
"Cách lấy thông tin và xử lư ra sao cũng là một trong những kỹ năng cơ bản nhất của người đang đi học. Bạn t́m thông tin thôi là chưa đủ, cái khó là làm sao để ứng dụng nó vào bài viết. Như ḿnh bây giờ đang phải làm khóa luận để tốt nghiệp, các thầy cô không cấm sử dụng internet để t́m tài liệu, tuy nhiên chỉ được phép đọc hiểu, lấy ư tưởng và viết lại theo cách của ḿnh chứ không phải "sao y bản chính". - Thu cho biết thêm.
"Đó gọi là kỹ năng "paraphrase". Kỹ năng này là một trong những yêu cầu tối thiểu của một người “biết sử dụng ngôn ngữ”. Từ những thông tin góp nhặt, hoàn toàn do nhiều người viết nên, sinh viên phải biết chắp nối chúng, sử dụng các liên từ, thông tin liên quan hợp lư và câu chữ, “hồn” bài viết thuộc về tác giả để tạo nên một bài hoàn chỉnh".
V́ thế, việc xây dựng một bài viết hoàn chỉnh từ nguồn thông tin có sẵn trên mạng Internet không đơn giản. Với những sinh viên ít chịu t́m ṭi và học hỏi th́ Google không c̣n là “thư viện khổng lồ” của họ nữa mà đă biến sang một thể xấu hơn, có thể coi như “nguồn để cóp nhặt”. Rất nhiều trường hợp bài làm của sinh viên bị phát hiện giống y như những bài viết học thuật có sẵn trên mạng Internet. Câu truyện bi hài về chàng sinh viên cóp đúng bài viết của giáo sư chấm đề án không c̣n lạ lẫm trong các đề tài truyện phiếm ngày nay v́ thực sự, chúng đă từng xảy ra.
Với các trường Đại học tại Việt Nam, việc các giáo viên cũng tự ḿnh kiểm chứng nguồn thông tin trên mạng Internet vẫn chưa phổ biến đến mức họ kiểm soát được hành vi của sinh viên. V́ thế hầu hết các trường Đại học hiện nay đều cố gắng phổ cập tin học cho các giáo viên thuộc thế hệ cũ, những người không có cơ hội tiếp xúc với công nghệ Internet.
Pḥng lab của một trường đại học tại Hà Nội.
Ở nước ngoài, các trường Đại học hầu hết đều đă thêm vào quy chế cực kỳ nghiêm khắc với các hành động cóp bài từ trên mạng Internet về làm đề án riêng của ḿnh. Lấy ví dụ như các trường Đại học tại Singapore như NTU, NUS, MDIS, SIM... đều có văn bản đính kèm với mỗi đề tài giao cho sinh viên về nhà liên quan đến việc “ăn cắp tài sản trí tuệ trên mạng Internet”. Giáo viên cho phép sinh viên được sử dụng thông tin trên mạng nhưng điều đó không có nghĩa họ được dùng y nguyên từng câu chữ đă được chỉnh sửa hết sức cẩn thận trên đó. H́nh phạt cho tội danh này rất nặng, có thể dẫn đến đuổi học.
Phải nhấn mạnh rằng trong trường hợp này rơ ràng Internet không hề có tội t́nh ǵ cả. Cô Liên, giáo viên tiếng Anh Đại học Sư Phạm 2 cho rằng lỗi thuộc về sinh viên:
“Nếu các em ấy cóp lại ư của bài luận, kể cả luận văn tốt nghiệp và viết lại theo ư ḿnh th́ cô sẵn sàng cho điểm cao v́ điều đó thể hiện tŕnh độ sử dụng ngôn ngữ. Nhưng nếu chỉ hoàn toàn là bài copy th́ cô không chấp nhận. Đó là gian trá”.
Không có ǵ phải bàn về tác dụng tích cực của Internet trong việc giáo dục ngày nay nhưng cũng không thể phủ nhận, một phần trong những tác dụng tích cực ấy đang bị chính các sinh viên lười học làm hư hại. T́m kiếm thông tin trên mạng Internet không hề có mặt trái, đó là do nó bị người ta cố gắng lật ngược lại mà thôi.
theo genk