Nam Sơn Trần Văn Chi/Người Việt
Nào ai đi Bắc đi Nam
Ba Tri xứ lụa, thêm danh vườn c̣
Thơ về Ba Tri
Ba Tri là tên huyện Ba Tri thuộc tỉnh Bến Tre.
Bến Tre cách thành phố Sài G̣n 87 km về phía Tây.
Từ Sài G̣n đi Trung Lương. Đến Trung Lương đi thẳng vào TP. Mỹ Tho để đi về cầu Rạch Miễu. Qua cầu Rạch Miễu là quốc lộ 60. Chạy theo quốc lộ 60 vào TP. Bến Tre. Đi hướng về cầu Bến Tre 2 đi Ba Tri.
Mộ của cụ Phan Thanh Giản, ở Ba Tri, Bến Tre. (H́nh: nguoibentre.vn)
Do vị trí thuận lợi, nằm giữa hai cửa sông lớn, đất đai cao ráo, cho nên Ba Tri là một trong những điểm định cư sớm nhất của những lưu dân người Việt từ miền ngoài vào. Những tài liệu thu thập được cho thấy rằng từ đầu thế kỷ XVIII, đă có nhiều người từ miền Trung đến đây định cư, làm nghề biển và khai phá đất đai.
Một ít lịch sử Ba Tri
Đầu thế kỷ XVIII, một số cư dân người Việt gốc miền Trung đă đến đây định cư, làm nghề biển và khai phá đất đai.
Năm 1900, tỉnh Bến Tre được thành lập gồm 2 cù lao Minh và Bảo. Hiện nay, cù lao Bảo gồm một phần huyện Châu Thành, huyện Giồng Trôm, huyện Ba Tri và thị xă Bến Tre.
Thời Gia Long, cù lao Bảo được đặt là tổng An Bảo. Đến triều Minh Mạng, 1832, tổng An Bảo được thăng lên huyện với tên mới là Bảo An. Đến năm 1837, huyện Bảo An được chia thành hai huyện: Bảo An và Bảo Hựu. Huyện Bảo An (mới) nằm ở phía Đông cù lao Bảo, có diện tích gần tương đương với huyện Ba Tri ngày nay.
Quận Ba Tri lập năm 1942 thời Pháp thuộc.
Thời Việt Nam Cộng Ḥa, từ ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến Ḥa và gồm 9 quận: Ba Tri, B́nh Đại, Đôn Nhơn, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Hàm Long, Hương Mỹ, Trúc Giang.
Sau 30 Tháng Tư 1975, Ba Tri là huyện của tỉnh Bến Tre.
Huyện có diện tích 355km2 và dân số 18,7398 người (đông nhất của tỉnh). Huyện lỵ là thị trấn Ba Tri nằm cách thành phố Bến Tre khoảng 30km về hướng Đông Nam.
Ông già Ba Tri, Thái Hữu Kiểm
Tự điển Tiếng Việt của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giải thích thành ngữ “Ông già Ba Tri” là “Người già mà quắc thước, can đảm, có công sửa làng, giúp nước, lập chợ, mở đường”.
Cho tới nay cụm từ này đă trở thành một thành ngữ chỉ những ông già kiên quyết hành động, bất chấp trở ngại tuổi tác, chứ không riêng cho Bến Tre.
Thành ngữ Ông Già Bến Tre từ lâu đi vào trong kư ức dân gian, trong sử sách và đă vượt khỏi địa giới của Bến Tre, trở thành một giai thoại.
***
Chuyện bắt đầu do việc đắp đập, ngăn sông đưa đến sự tranh chấp giữa hai làng ở gần nhau trên cùng con rạch Ba Tri. Mâu thuẫn của hai dân làng ở nơi đây không giải quyết được, phải kiện lên quan tỉnh Vĩnh Long. Kết quả phân xử của quan tỉnh không làm họ hài ḷng, nên dân làng góp tiền gạo, cử ba bô lăo mang đơn ra triều đ́nh Huế thưa kiện.
Hồi đó đường từ Ba Tri đến kinh đô Huế dài cả ngàn cây số và lúc bấy giờ chỉ có hai cách đi: Một là đi bằng ghe, phải chờ mùa gió thuận, chưa nói đến băo tố nguy hiểm xảy ra thường xuyên; hai là bằng đường bộ th́ lại lắm đèo, nhiều dốc hiểm trở, đầy cọp, beo và giặc cướp ở dọc đường.
Thế nhưng những trở ngại to lớn ấy đă không ngăn được ư chí và quyết tâm của các vị bô lăo, đại biểu của dân làng Ba Tri. Các cụ già đă ra tận kinh đô Huế bằng sức của đôi chân, đă diện kiến được nhà vua để tŕnh bày mọi lẽ, và cuối cùng các cụ đă thắng cuộc, trở về.
Lẽ phải ở về phía dân làng đi thưa kiện.
Câu chuyện trên đây đă lưu truyền trong dân gian và cũng đă được ghi lại trong một số sách như: Monographie de la province de Bến Tre (Chuyên khảo tỉnh Bến Tre) do một người Pháp soạn năm 1929, Kiến Ḥa xưa và nay của Huỳnh Minh (1965), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1954) của Nguyễn Duy Oanh (1971). Cũng như các truyện kể lưu truyền trong dân gian, hoặc được người sau ghi lại trên giấy trắng mực đen, với nhiều dị bản khác nhau.
Nếu ở quyển Monographie de la province de Bến Tre và Kiến Ḥa xưa và nay chỉ nói đến một ông lăo phiếm định, th́ ở quyển Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1954), tác giả lại đưa ra một ông già cụ thể có tên, họ hẳn hoi, gắn liền với ḍng dơi, con cháu hiện nay vẫn c̣n sống ở xă An Đức, huyện Ba Tri tên Thái Hữu Kiểm mà dân gian gọi là Ông già Ba Tri.
Cốt lơi của câu chuyện là sự đề cao tinh thần dũng cảm, ư chí quyết tâm của các bô lăo địa phương - người đại diện cho nguyện vọng, phẩm cách và ư chí của dân làng. Có lẽ đó là điều mà mọi người quan tâm nhiều nhất.
Nhân vật lịch sử ở Ba Tri
Ba Tri là đất “địa linh, nhân kiệt”. Có cụ Phan Thanh Giản làm quan đến chức hiệp tá đại học sĩ, nhậm chức thượng thư bộ hộ. Cuối năm 1867, quân Pháp đem binh chiếm ba tỉnh miền Tây là Hà Tiên, An Giang và Vĩnh Long. Phan Thanh Giản (người làng Bảo Thạnh, quận Ba Tri) giữ thành không nổi. Do không làm tṛn mệnh vua, ông dặn ḍ con cháu không được làm tay sai cho Pháp, rồi uống thuốc độc tự vận.
Sau đó từ năm 1867 đến 1870, các cuộc khởi nghĩa do các con của Phan Thanh Giản là Phan Liêm, Phan Tôn và Phan Ngữ vẫn diễn ra không chỉ ở Bến Tre. Năm 1870, trong một cuộc giao chiến ở Giồng Gạch, Phan Tôn và Phan Ngữ tử trận.
Ba Tri c̣n có cụ tú tài Nguyễn Đ́nh Chiểu - một nhà thơ mù yêu nước - tác giả của truyện thơ Lục Vân Tiên với 2 câu thơ nổi tiếng.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
***
Trước năm 1945, Ba Tri có nghề ươm tơ, dệt lụa và lụa Ba Tri đă từng nổi tiếng trên thị trường Nam Kỳ.
Do chiến tranh, nghề này đă bị mai một dần và cho đến như nay chưa đủ điều kiện để phục hồi.
Nào ai đi Bắc đi Nam
Ba Tri xứ lụa, thêm danh vườn c̣
Thơ về Ba Tri
Ba Tri gần đây nổi tiếng với làng nghêu.
Nghêu về cửa sông B́nh Đại, Ba Tri Thạnh Phú ngập băi. Dân quanh vùng và cả từ những nơi khác kéo nhau tới bắt từ nghêu to tới nghêu nhỏ.
Nghêu đưa đến không ít cuộc chiến tranh giành băi nghêu đă khiến con nghêu “đi biệt xứ” cả thời gian dài đến nay mới trở lại.
Sách mới phát hành
Tuyển tập biên khảo
Phong Tục-Văn Hóa
Trần Văn Chi
Xin liên lạc:
tranvannamson@gmail. com
Cell: 714-702-4048