Theo một tài liệu phổ biến năm 2010 của Cộng Đồng Liên Bang Úc Châu, th́ hiện có đến 4.5 triệu người Việt sống ở hải ngoại. Con số này lớn hơn con số thường được phổ biến từ trước là chỉ có khoảng trên 3.5 triệu người. Đọc kỹ lại, chúng ta thấy trong tài liệu từ Úc Châu th́ có ghi rơ: Số người Việt sinh sống tại nước láng giềng Cambodia đă lên tới 900,000 người rồi. Tài liệu này cũng ghi con số người Việt sinh sống ở Đài Loan, Nam Hàn và mấy nước Á Châu khác nữa. Như vậy, tổng số người Việt sinh sống riêng ở Á Châu đă có thể lên đến gần 1.5 triệu người rồi. Kết cục là con số người Việt hiện sinh sống tại các quốc gia thuộc Âu Châu, Mỹ Châu và Úc Châu cũng chỉ vào khoảng trên 3 triệu người. Trong đó riêng ở nước Mỹ và Canada, hiện có đến 2 triệu người gốc Việt.
Bài viết này nhằm ghi nhận một ít suy nghĩ về vấn đề hội nhập của người Việt chúng ta tại xă hội Âu Mỹ - tức là tại các quốc gia thuộc Âu Châu (cả Tây Âu và Đông Âu), Mỹ Châu và Úc Châu. Để bạn đọc dễ dàng theo dơi câu chuyện, tôi xin được tŕnh bày vấn đề qua các mục chính yếu như sau:
I. Bối cảnh chung về chính trị xă hội và văn hóa tại các quốc gia Âu Mỹ
Dù có sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia trong hai châu lục Âu và Mỹ, chúng ta vẫn nhận thấy có một sự tương đồng sâu sắc trong ḷng xă hội của các quốc gia này. Cụ thể chúng ta có thể nêu ra một số nét chính yếu như sau:
A. Về phương diện chính trị, th́ rơ rệt là các quốc gia ở Âu và Mỹ Châu hiện đă thiết lập được một nền dân chủ tương đối vững vàng hoàn chỉnh và thông thoáng. Kể cả tại các nước cựu cộng sản tại Đông Âu, các nước được tách ra khỏi Liên Bang Xô Viết th́ từ 25 năm nay, nhân dân và chính quyền tại đây đều đă lần hồi xây dựng được một chế độ chính trị tương đối tiến bộ với sự tôn trọng nghiêm túc về phẩm giá và quyền con người.
Đặc biệt là những sắc dân thiểu số hay mới nhập cư đều có quyền và có cơ hội thuận lợi để tranh đấu cho những đ̣i hỏi chính đáng của ḿnh. Tại Úc Châu, chính sách đa chủng tộc, đa văn hóa (multi-ethnic, multi-cultural) được giới chính khách tích cực đề cao tôn trọng.
B. Về phương diện xă hội, các chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xă hội, an sinh xă hội... là sự thể hiện vững chắc của tinh thần liên đới huynh đệ giữa các tầng lớp nhân dân (Fraternal Solidarity). Điển h́nh là tại các quốc gia phía Bắc Âu Châu như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, chính sách thuế khóa được sử dụng thật khôn khéo như là một phương tiện để điều tiết sự phân phối lợi tức quốc gia - mà nhờ đó tầng lớp kém may mắn với thu nhập thấp kém được bù đắp với những phúc lợi xă hội thật hào phóng dồi dào. Người dân luôn sẵn sàng đóng thuế cao để được hưởng chế độ an sinh xă hội khá tốt đẹp.
Đáng kể nhất là vai tṛ của các nghiệp đoàn công nhân trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của tập thể giới lao động trong các công ty xí nghiệp.
Mặt khác, v́ có tự do lập hội, tự do ngôn luận, tự do hội họp, v.v... nên các tổ chức thuộc khu vực xă hội dân sự có điều kiện thoải mái để phát huy tác dụng của ḿnh trong cố gắng cải thiện môi trường sống cả về mặt vật chất cũng như về mặt tâm linh tinh thần. Càng ngày, vai tṛ của các “tác nhân không phải là nhà nước” (Non-State Actors) như thế đó càng đóng vai tṛ quan trọng hơn trong công cuộc xây dựng và phát triển nếp sinh hoạt đa dạng phong phú của tập thể cộng đồng xă hội.
C. Về mặt văn hóa, các quốc gia Âu Mỹ kể ra đă rất thành công trong việc tiếp nối và phát huy cái truyền thống quư báu của nền văn minh Hy Lạp và La Mă (La-Hy = Latino-Greek) - đặc biệt về các mặt học thuật, tư tưởng, khoa học và luật pháp.
Và điểm đáng chú ư hơn cả - đó là Thiên Chúa Giáo gồm Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo đă ăn rễ sâu xa nơi đời sống văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật tại các quốc gia Âu Mỹ - tương tự như vai tṛ của Tam Giáo Phật Lăo Nho trong xă hội Á Đông chúng ta như Việt Nam, Nam Hàn, Nhật và Trung Quốc.
Mặc dầu ngày nay, làn sóng vô thần đang phát triển mạnh - và mặc dầu chế độ cộng sản do Liên Xô lănh đạo trong trên nửa thế kỷ đă t́m mọi cách thâm độc để tiêu diệt tôn giáo - th́ Thiên Chúa Giáo vẫn c̣n là một thế lực tinh thần quan trọng trong đời sống tâm linh và văn hóa của người dân Âu Mỹ. Nổi bật nhất là người dân tôn trọng sự đa dạng về tôn giáo và đề cao tính cách bao dung về tôn giáo (Religious Diversity/Tolerance). Mọi biểu hiện của nạn kỳ thị sắc tộc, kỳ thị tôn giáo và nhất là sự cuồng tín tôn giáo đều bị công luận phê b́nh lên án nghiêm khắc.
Cái môi trường chính trị văn hóa xă hội tiến bộ thông thoáng như thế rơ ràng là một thứ “đất lành chim đậu” rất thuận lợi cho mấy triệu người Việt chúng ta t́m kiếm để mà đem cả gia đ́nh tới định cư lập nghiệp lâu dài vậy.
II. Mức độ hội nhập khác biệt giữa các thế hệ người Việt định cư tại Âu Mỹ
Nhằm đơn giản hóa sự tŕnh bày, chúng ta có thể xếp loại thành ba thế hệ như sau:
a. Thế hệ I gồm ông bà hiện ở vào lớp tuổi 60-70 (trưởng thành ở Việt Nam).
b. Thế hệ II gồm cha mẹ hiện vào lớp tuổi 40-50 (sinh trưởng ở Việt Nam).
c. Thế hệ III gồm lớp cháu cỡ tuổi 20-30 (lớp này hầu hết được sinh ra ở nước ngoài).
1. Thế hệ I gồm những người lớn tuổi đă trưởng thành, có sự nghiệp vững vàng ở Việt Nam, nhưng khi đến định cư ở nước ngoài th́ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong việc hội nhập văn hóa xă hội nơi môi trường sở tại - điển h́nh là khó vượt qua được cái hàng rào ngôn ngữ, cũng như khó thích nghi được với lối sống của ḍng chính trong xă hội địa phương. Chính v́ thế mà nhiều người chỉ t́m cách sống quần tụ riêng với nhau trong cộng đồng người Việt - mà ít tiếp cận với người địa phương. Từ đó mà phát sinh ra cái năo trạng “ốc đảo” (ghetto mentality) - sống cô lập khép kín giữa các đồng hương với nhau mà thôi. Họ thường c̣n bị ràng buộc bởi những hoài niệm, những nuối tiếc về cái thuở vàng son của thời quá khứ nơi quê nhà. Do đó mà không có sự hăng say năng nổ t́m kiếm những phương thức hành động thích nghi với môi trường xă hội mới lạ vốn đ̣i hỏi một viễn kiến sâu rộng và năng lực khai phá mạnh bạo không hề chùn bước trước mọi nghịch cảnh thách đố.
2. Thế hệ II là lớp con của thế hệ I, sinh trưởng ở Việt Nam mà đi định cư ở nước ngoài lúc c̣n trẻ (cỡ trên dưới 20 tuổi) - do vậy mà dễ thích nghi được với môi trường văn hóa xă hội sở tại. Phần đông lại được học bậc cao đẳng hay đại học ở nước ngoài, nhờ vậy dễ kiếm được việc làm nơi các cơ sở kinh doanh của người địa phương. Và từ đó mà có nhiều cơ hội tiếp cận và sống ḥa đồng với xă hội sở tại. Hơn thế nữa, v́ phải chăm lo hướng dẫn cho lớp con là thế hệ III vốn sinh ra ở nước ngoài, nên phải cố gắng trau dồi thêm về mặt chuyên môn - nhất là về văn hóa để gia đ́nh cùng ḥa nhập êm thấm với ḍng chính của địa phương.
3. Thế hệ III là lớp cháu của thế hệ I, th́ được sinh ra ở nước ngoài và được theo học ở địa phương ngay từ các nhà trẻ, lớp mẫu giáo lên đến cấp tiểu học, trung học và cả đại học - y hệt như các bạn cùng lứa tuổi trong các gia đ́nh sở tại. Do vậy mà thế hệ này có những điều kiện hoàn toàn thuận lợi để mà hội nhập vào với ḍng chính của quốc gia sở tại - có thể là bị cuốn hút đến độ đồng hóa sâu sắc với người bản xứ chính hiệu. Nhưng sự kiện này lại có mặt trái của nó - đó là thế hệ III không có sự hiểu biết và không c̣n gắn bó ǵ với cội nguồn văn hóa dân tộc Việt Nam nữa. T́nh trạng “mất gốc” này (uprooted) chính là điều làm cho thế hệ I của ông bà quan tâm lo lắng.
Tuy các cháu vẫn kính trọng hiếu nghĩa đối với ông bà cha mẹ, nhưng xem ra có phần lơ là đối với chuyện thuần phong mỹ tục, với nền luân lư dân tộc. Và nhất là các cháu không thiết tha ǵ lắm với lập trường chính trị của thế hệ I vốn hầu hết là nạn nhân khốn khổ của chế độ độc tài tàn bạo của cộng sản - mà cũng v́ thế mà gia đ́nh phải bỏ nước ra đi lập nghiệp ở nước ngoài.
III. Làm sao để hội nhập mà vẫn giữ đươc bản sắc dân tộc của ḿnh?
Đây chính là mối ưu tư của bất kỳ lớp người di dân nào mà phải rời bỏ quê hương bản quán để ra đi lập nghiệp tại một xứ sở xa lạ nào khác - chứ không phải chỉ là của riêng khối người Việt chúng ta hiện đang định cư tại khắp các châu lục trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Âu Mỹ.
Từ xa xưa, cha ông chúng ta vẫn thường nhắc nhở: “Nhập gia tùy tục” để mà khuyến khích con dân phải biết cố gắng thích nghi với hoàn cảnh khác biệt tại nơi ḿnh mới đến nhập cư lập nghiệp. Trong ngôn ngữ ngày nay, người ta sử dụng từ ngữ “hội nhập” (Integration) để mô tả cái quá tŕnh gọt giũa uốn nắn bản thân mỗi người để làm sao thích nghi được với hoàn cảnh mới - hầu có thể gia nhập êm thấm vào với môi trường xă hội tại địa phương nơi ḿnh đă chọn lựa đến cư ngụ để sinh sống lập nghiệp lâu dài.
1. Riêng đối với tập thể người Việt chúng ta, th́ như đă phân tích ở phần II trên đây - thế hệ I là lớp người lớn tuổi th́ c̣n lưu giữ được nhiều kỷ niệm, kư ức về phong tục tập quán trong truyền thống dân tộc, nhưng lại ít hội nhập vào với ḍng chính của xă hội sở tại. Hiện tượng này trái ngược hẳn với chiều hướng của thế hệ III của lớp cháu sinh trưởng ở nước ngoài - các cháu hầu như không c̣n ư thức rơ rệt về truyền thống dân tộc, mà lại gần như đồng hóa hoàn toàn với ḍng chính của người bản xứ.
Thành ra, chỉ c̣n trông cậy nơi thế hệ II gồm lớp trung niên hiện vẫn c̣n có sự gắn bó với truyền thống dân tộc mà cũng hội nhập tương đối khá vững chắc với ḍng chính của xă hội địa phương. Thế hệ này có thể coi như là cái nhịp cầu nối giữa thế hệ I và thế hệ III - tiếp thu được kinh nghiệm của các bậc tiền bối và rồi truyền đạt lại cho những hậu duệ trong gia tộc của ḿnh. Đó là một vai tṛ quan trọng để khích lệ và hướng dẫn cho thế hệ III trong việc tiếp tục hội nhập mà vẫn lưu giữ được bản sắc dân tộc của cha ông ḿnh.
2. Cụ thể là các lớp học Việt ngữ vẫn được nhiều thày cô t́nh nguyện mở ra vào những ngày cuối tuần tại các chùa, các nhà thờ, các trung tâm văn hóa để dạy cho lớp trẻ cả về tiếng Việt, cả về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Rồi đến các khóa huấn luyện, các trại hè, các tổ chức sinh hoạt dành riêng cho thiếu nhi, học sinh, sinh viên, các cuộc thi về văn hóa ngôn ngữ tiếng Việt, các lễ hội dịp Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v.v... Tất cả những cố gắng bền bỉ liên tục từ năm này qua năm khác như thế đă có tác dụng truyền đạt được cho thế hệ trẻ sự hiểu biết về nguồn cội của ḿnh và nhất là cái ngọn lửa say mê nhiệt thành trong công cuộc giữ ǵn và phát triển gia sản vốn liếng tinh thần quư báu của văn hóa và đạo đức truyền thống dân tộc.
Điển h́nh là trường hợp của một số phụ huynh cũng tự nguyện tham gia sinh hoạt với tổ chức Hướng Đạo cùng với lũ con của ḿnh - nhằm khuyến khích các cháu vui vẻ phấn khởi theo đuổi các công tác và sinh hoạt lành mạnh của tổ chức đào tạo huấn luyện thanh thiếu niên đă từng có uy tín lâu năm này.
3. Nh́n chung, th́ trong gần 40 năm qua cái tiến tŕnh định cư lập nghiệp của trên 3 triệu người Việt chúng ta nơi các quốc gia Âu Mỹ đă diễn ra một cách tương đối tốt đẹp êm thấm. Đó là nhờ ở hoàn cảnh khách quan cởi mở thông thoáng tại chính các xă hội tiếp nhận và nhất là do ư chí và nỗ lực kiên tŕ của cả tập thể số người Việt thuộc thế hệ I đă quyết tâm ra đi để xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp cho bản thân và cho gia đ́nh của ḿnh.
Dĩ nhiên đây là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm táo bạo đầy những thử thách cam go, nhưng chúng ta cũng thật vui mừng trước những thành công to lớn mà tập thể người Việt hải ngoại đă gặt hái được - cả về phương diện kinh tế vật chất, cả về phương diện văn hóa tinh thần trong những bước đầu định cư ở nước ngoài. Sự thành công này không phải chỉ đem lại lợi ích cho riêng bản thân các gia đ́nh người Việt hải ngoại - mà c̣n có tác dụng góp phần tích cực đáng kể vào công cuộc xây dựng và phát triển quê hương đất nước nơi mà hơn 90 triệu đồng bào đang hăng say phấn khởi chủ xướng phát động nhằm tạo dựng cho bằng được một xă hội thịnh vượng, tự do và an ḥa nhân ái trong một tương lai không bao xa nữa vậy.
nv
|
|