Đóng góp tham luận về quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc tại Diễn đàn kinh tế mùa Thu ngày 27.9-28.9, PGS.TS Bùi Tất Thắng cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có khả năng vượt qua được những khó khăn nếu có trục trặc trong quan hệ kinh tế do Trung Quốc gây ra. Thực tế suốt những năm xảy ra chiến tranh với Trung Quốc (1979-1989), Việt Nam đă từng không quan hệ kinh tế với nước này và kinh tế của ta vẫn vượt qua được khó khăn. Tham luận của PGS.TS Bùi Tất Thắng có nêu: "Ở góc nh́n dài hạn có thể thấy rằng, trong suốt chiều dài lịch sử, diễn biến của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mang tính thăng trầm. Nhưng về cơ bản, các quan hệ kinh tế và văn hóa th́ tỏ ra bền vững hơn, xuất phát cả từ lư do lịch sử lẫn nhu cầu thực tế. Song, xét ở góc độ quốc gia, để có một quan hệ kinh tế và văn hóa bền vững, b́nh đẳng, th́ nội lực kinh tế của Việt Nam phải mạnh lên. Hàn Quốc chẳng hạn, hiện nay có quan hệ buôn bán với Trung Quốc lớn hơn nhiều so với buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc và Hàn Quốc luôn là nước xuất siêu. Vậy, để có được vị thế quan hệ buôn bán với Trung Quốc giống như Hàn Quốc, cần phải có thời gian và có lẽ cần một cách tiếp cận khác với cách mà Việt Nam đang quan hệ kinh tế với Trung Quốc hiện nay". Theo PGS Thắng, việc Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là hành động có chủ ư. V́ vậy, có thể sau sự kiện này sẽ là một thời kỳ quan hệ phức tạp, đấu tranh và hợp tác trong căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, PGS. Thắng cũng bày tỏ sự lạc quan khi cho rằng, chẳng có lư do ǵ để Việt Nam không vượt qua được những khó khăn do trục trặc trong quan hệ kinh tế do Trung Quốc gây ra. Cơ sở để PGS. Thắng đưa ra nhận định này là trong suốt những năm xảy ra chiến tranh với Trung Quốc (1979-1989), Việt Nam đă từng không quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Và xét về quan hệ kinh tế của Việt Nam th́ không đâu bằng với Liên Xô (cũ), nhưng khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước này cũng không c̣n, thực tế cho thấy kinh tế Việt Nam vẫn vượt qua được. "V́ thế, tôi cho rằng, chẳng có lư do ǵ để không vượt qua được những khó khăn do trục trặc trong hệ kinh tế do Trung Quốc gây ra. Trong mọi từng lĩnh vực quan hệ kinh tế với Trung Quốc đều cho thấy tính hai mặt rơ rệt. Chẳng hạn, nếu khối lượng buôn bán suy giảm, nhiều loại máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu cho sản xuất của Việt Nam sẽ không được cung cấp từ Trung Quốc, không lẽ các doanh nghiệp không tái cơ cấu (đành rằng không dễ) để tồn tại và phát triển? Và có thể v́ vậy mà nhập siêu từ Trung Quốc sẽ giảm! C̣n về FDI của Trung Quốc, với mức đă giải ngân khoảng 2 tỷ USD so với tổng mức FDI đă giải ngân gần 100 tỷ USD, chỉ chiếm 2%, cũng không phải có ảnh hưởng lớn. Mức độ ảnh hưởng của suy giảm khách du lịch từ Trung Quốc cũng tương tự như vậy. Với từng doanh nghiệp, mức độ ảnh hưởng lớn - nhỏ tùy thuộc vào mức độ và quy mô quan hệ kinh doanh trực tiếp với Trung Quốc, nhưng trên b́nh diện tổng thể quốc gia th́ mức độ tác động ảnh hưởng lại chủ yếu chịu tác động của các chính sách kinh tế tổng thể và quan hệ kinh tế đối ngoại" - PGS. Thắng cho biết. Trong khi đó, theo nghiên cứu của chuyên gia kinh tế Bùi Trinh, nếu sử dụng bảng cân đối liên ngành năm 2010 (cập nhật năm cho năm 2012) theo giá 2010 của Việt Nam, phân tách xuất khẩu và nhập khẩu thành xuất khẩu sang Trung Quốc và xuất khẩu sang các nước c̣n lại; nhập khẩu từ Trung Quốc và nhập khẩu từ các nước c̣n lại. Từ đó tính toán mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc tới nền kinh tế Việt Nam cho ra các giả thiết: tổng thầu ngưng trệ; đầu tư FDI từ Trung Quốc giảm 50%; xuất khẩu giảm 20%; nhập khẩu giảm 20%. Kết luận: Khi tổng thầu giảm và FDI từ Trung Quốc giảm th́ nhập khẩu cũng giảm khoảng 40%, với t́nh huống đó, tổng ảnh hưởng làm GDP giảm khoảng 1,68%. Tuy nhiên, nếu thay thế được tổng thầu với đối tác khác hoặc với các đối tác trong nước và sản xuất ít phụ thuộc vào nhập khẩu hơn th́ ảnh hưởng này sẽ c̣n ít hơn. Bên cạnh đó, nếu thay thế xuất khẩu sang Trung Quốc bằng xuất khẩu sang các nước khác 5% và cơ cấu xuất khẩu thay đổi (chuyển tỉ trọng xuất khẩu ở khu vực công nghiệp sang khu vực dịch vụ) th́ ảnh hưởng này lại làm GDP tăng 0,22-0,5%. Cấu trúc kinh tế mà ta cần hướng tới là chuyển xuất khẩu của khu vực công nghiệp sang khu vực dịch vụ . Từ đó, chuyên gia Bùi Trinh đi đến kết luận, nếu kinh tế Việt Nam ngày càng kém hiệu quả và mang tính gia công th́ dù không có vụ giàn khoan của Trung Quốc th́ nền kinh tế Việt Nam nếu không nhanh chóng thay đổi sẽ có nguy cơ “đau ốm” triền miên và đến một lúc nào đó sẽ không gượng dậy được nữa. "Cộng cả vụ giàn khoan th́ càng cần thực hiện nhanh chóng và quyết liệt thông điệp đầu năm của Thủ tướng, ngoài ra cấu trúc kinh tế cũng cần thay đổi chuyển hướng từ xuất khẩu của khu vực công nghiệp chế biến sang xuất khẩu dịch vụ. Cũng cần tăng cường phía cung làm tăng cường sản xuất ra các sản phẩm có thể tiêu dùng trong nước và các chính sách ưu đăi cho xuất khẩu cũng cần cho sản xuất các sản phẩm tiêu thụ trong nước. Cần tạo một sân chơi bình đẳng giữa các khu vực sở hữu" - ông nhận định. Quan hệ kinh tế phát triển nhanh nhưng mức nhập siêu của VN ngày càng cao Theo PGS.TS Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh chóng, nhất là từ khoảng giữa thập niên 2000 đến nay, thể hiện rơ nét trên 3 lĩnh vực chính: thương mại, đầu tư và du lịch. Về thương mại, theo số liệu thống kê, kim ngạch ngoại thương giữa hai nước tăng nhanh qua các năm, đặc biệt là từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, mức nhập siêu cũng tăng nhanh và ngày càng lớn. Các năm 2009 và 2010, nhập siêu từ Trung Quốc chiếm gần như toàn bộ giá trị nhập siêu của Việt Nam. Đến năm 2013, Việt Nam đă nhập siêu từ Trung Quốc lên tới 23,7 tỉ USD. Trong khi mức độ ảnh hưởng của xuất - nhập khẩu của Trung Quốc đối với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam rất lớn, th́ mức ảnh hưởng của xuất - nhập khẩu của Việt Nam đối với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Trung Quốc lại rất nhỏ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam năm cao nhất cũng chưa đầy 0,7% giá trị nhập khẩu của Trung Quốc, so với mức trên 25% của giá trị xuất khẩu hàng Trung Quốc trên tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam (chênh lệch trên 37 lần). Về đầu tư, tính đến hết tháng 12.2013, Trung Quốc đă đầu tư vào Việt Nam gần 1.000 dự án với gần 6 tỉ USD vốn đăng kư, đứng thứ 9/100 quốc gia và vùng lănh thổ đầu tư vào Việt Nam. Phần lớn FDI của Trung Quốc được đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp và trải rộng trên địa bàn của 55/63 tỉnh/thành phố trên cả nước, tạo ra khoảng 100.000 chỗ làm việc trực tiếp. Ở chiều ngược lại, Việt Nam mới có 13 dự án đầu tư sang Trung Quốc với 16 triệu USD. Về du lịch, số lượng khách du lịch từ Trung Quốc đến Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2007 có hơn 557.000 lượt khách, đến năm 2013 đạt đến 1,9 triệu lượt khác. Lượng khách đến từ Trung Quốc chiếm hơn 20% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Tuy nhiên, theo đánh giá của các công ty du lịch, mức chi tiêu b́nh quân của khách Trung Quốc c̣n rất thấp. Đánh giá nhân tố Trung Quốc với nền kinh tế Việt Nam, tham luận của chuyên gia kinh tế Bùi Trinh đóng góp vào Diễn đàn kinh tế mùa Thu chỉ ra rằng, nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng nhập khẩu, từ 16% năm 2005 đến năm 2012 tăng hơn 25%. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lư kinh tế TW th́ 60% nhập khẩu từ Trung Quốc là nguyên vật liệu cho sản xuất, hơn 30% là máy móc thiết bị và gần 10% cho tiêu dùng cuối cùng. Những tính toán và phân tích cụ thể dưới đây có thể phần nào giúp có cái nh́n toàn diện hơn về hai nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc. tm
|
|