Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang (Nguyễn Gia Kiểng)
thanhnientudo / 4 ngày ago
Tập Cận B́nh thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đă thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết, Tập Cận B́nh trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn…”
Khi nhận định về Trung Quốc các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Quốc là một thế giới hay một đế quốc – hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Quốc- chứ không phải là một nước, do đó không thể lư luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy h́nh thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đă được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.
Cho đến nay thực trạng Trung Quốc đă được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.
Kinh tế Trung Quốc hết thuốc chữa
Hăy nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Quốc đă gây kinh ngạc cho thế giới v́ tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Quốc dĩ nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Quốc đă tràn ngập các thị trường thế giới, các công tŕnh xây dựng hoành tráng và các cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Quốc đầu tư vào mọi quốc gia, từ Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung Quốc tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần.
Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực. Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (Sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đă tóm lược cho tôi cuốn sách này ; nó sai v́ phạm một trong hai sai lầm cơ bản đă được nói ở đầu bài này nghĩa là lư luận về Trung Quốc như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan sát viên về Trung Quốc thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu Trung Quốc có thể lâm vào khủng hoảng không ? Rồi Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ? Và bây giờ câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ c̣n che đậy được t́nh trạng suy thoái bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Quốc sẽ ra sao ?
Tất cả những đèn báo động đều đă đỏ rực. Nợ công của Trung Quốc được ước lượng bởi mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi v́ không bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xă hội Trung Quốc. Thí dụ như t́nh trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lăi suất ưu đăi rồi cho các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lăi suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số nợ.
Kinh tế Trung Quốc dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đă giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua, ngoại thương Trung Quốc đă sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ?
Công ty tham vấn Lombard Street Research của Anh, vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Quốc nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng không thể có v́ dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi bỏ vào kho v́ không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đă hư hỏng cũng không khai v.v.
Một chỉ số đo lường ḷng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE của Trung Quốc lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đă phục hồi được mức độ của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật c̣n vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của Trung Quốc vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000.
Ḷng tin vào tương lai của kinh tế Trung Quốc c̣n thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm ḍ của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia Trung Quốc đă hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Quốc đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dơi sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Quốc giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lai Trung Quốc tươi sáng tại sao những người được ưu đăi nhất lại bỏ đi ?
Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài các doanh nhân Trung Quốc không c̣n giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.
Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm 2008 trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng th́ Trung Quốc đă có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu th́ càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ nó không c̣n giải pháp.
Năm 2013 khi mới lên cầm quyền, Tập Cận B́nh ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lăi suất và kiểm soát tín dụng. Ông đă phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp này -đúng trên nguyên tắc- trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế, chính quyền Bắc Kinh c̣n phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ c̣n là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần v́ ngay cả biện pháp bơm tiền cũng không c̣n hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay v́ không biết dùng tiền để làm ǵ.
Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không cứu văn được. Giải pháp tự nhiên khi mô h́nh hướng ngoại không c̣n theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều Trung Quốc đă làm nhưng đă chỉ khiến kinh tế Trung Quốc nguy ngập hơn. Từ năm 2010, Trung Quốc đă liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng v́ người công nhân Trung Quốc chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, pḥng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này đă có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng hóa Trung Quốc khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung Quốc hiện đă mất gần hết các thị trường tại Châu Âu.
Chừng nào kinh tế Trung Quốc sẽ thực sự sụp đổ ? Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Quốc “có sụp cũng c̣n lâu” chủ yếu là ở chỗ Trung Quốc vẫn c̣n khoảng 2.000 tỷ USD công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Quốc -ít nhất 30.000 tỷ USD- nhưng nó đem lại ảo tưởng là Trung Quốc vẫn c̣n giầu có v́ vẫn c̣n tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối với mọi người.
Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt
Nhưng kinh tế suy thoái không phải mối nguy lớn nhất của Trung Quốc. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không c̣n thở được nữa ; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm độc.
Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Thanh Hoa (Trung Quốc) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ trung b́nh của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đă giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu v́ môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính quyền Trung Quốc, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số sông của Trung Quốc đă hết nước.
Tháng 3/2013, một nghiên cứu công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : Trung Quốc chỉ c̣n 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đă biến mất. Mỗi con sông c̣n lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 t́nh trạng thiếu nước đă xấu đi nhiều thay v́ được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ ḷng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay v́ gia tăng cung cấp nước từ nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm nước.
T́nh trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường. Cần lưu ư là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn “sẻ núi lấp sông”. Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.
Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là ḍng sông giận dữ, chảy từ Trung Quốc sang Myanmar. Lư do khiến người ta đặt tên như vậy là v́ nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông này c̣n có một lư do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác chính thức của các thị xă chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xă có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được ḍng nước cuốn sang Myanmar và trở thành một vấn đề của Myanmar.
Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nh́n thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu ḿnh v́ đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu v́ khói từ các nhà máy không xử lư khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không c̣n nh́n thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ.
bautroi_hoabacBầu trời Hoa Bắc
Năm 2000 lượng nước trung b́nh của mỗi người Trung Quốc chỉ bằng 15% mức trung b́nh thế giới. Bây giờ t́nh trạng c̣n bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới t́m được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đă cằn cỗi, không khí và nước đă ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được th́ cũng chẳng c̣n ǵ để nói. Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt. Đó là lư do chính khiến rất nhiều người muốn rời Trung Quốc bằng mọi giá. Họ sợ chết.
Một chế độ tuyệt vọng
Mối nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo dơi t́nh h́nh Trung Quốc đều đồng ư rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận B́nh là cố gắng tập trung quyền hành về trung ương và về tay ông.
Tham nhũng chỉ là lư cớ. Chính Tập Cận B́nh cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu USD ? Không khác ǵ thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa Mác-Lenin đă bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa, chỉ c̣n lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.
Các tỉnh cũng không thể chịu đựng măi ách thống trị của trục Bắc Kinh – Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đă có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.
Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng, Trung Quốc là một thiên hạ chứ không phải là một nước, ḷng yêu nước đối với một người Trung Quốc chủ yếu là một t́nh cảm địa phương. Không cứ ǵ các sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nh́n những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Quốc c̣n lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi c̣n mang những thù hận chưa được hóa giải của quá khứ.
Trong suốt ḍng lịch sử dài của nó, sự thống nhất của Trung Quốc đă chỉ được duy tŕ bằng bạo lực và tàn sát. Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đă tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quư Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Quốc hầu như không có. Chính v́ thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Măn Châu đă có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đă cáo chung v́ tham nhũng và lỗi thời chứ không phải v́ là những ách thống trị ngoại bang.
Bế tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Quốc cũng đă chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đă muốn nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi, ông đă phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn áp. Năm 2013 Tập Cận B́nh lên cầm quyền với một chủ trương rơ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận B́nh thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đă thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đă tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận B́nh trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.
Nhưng việc phải làm đó là ǵ ? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và truyền thông đă thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên qua cũng đă cho người Trung Quốc thêm sức mạnh. Họ đă hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả năng để đ̣i hỏi những quyền đó.
Nhưng vấn đề là Trung Quốc không thể tồn tại với lănh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ v́ các vùng của Trung Quốc quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đă trở thành ghê tởm. Trên trang Web
http://www.ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11/2014 hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Số người ly khai hiện đă lên quá 200 triệu.
Lịch sử Trung Quốc nói chung là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi v́ thể chế chính trị vẫn c̣n là một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xă hội tan hoang và kiệt quệ ; chính quyền thành công trong những năm đầu và xă hội dần dần hồi sinh ; xă hội càng hồi sinh th́ nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị ; bộ máy quan liêu v́ thế tiếp tục ph́nh ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực chính trị ; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xă hội suy kiệt ; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản này hiện đă tới màn cuối dưới chế độ cộng sản. Tập Cận B́nh đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới.
Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là “nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lập”, ông ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.
Phải lo ngại cái ǵ ?
Chế độ cộng sản Trung Quốc c̣n trụ được bao lâu nữa ?
Như đă nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng Trung Quốc không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nh́n, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của Trung Quốc nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.