VBF-Phải nói rằng người Việt ở đâu cũng có, nên ở ngay biên giới láng giềng th́ càng phải có nhiều. Tại đây người Việt rất nghèo, các em học sinh cũng chưa chắc có tiền đi học. Nh́n các em th́ thấy thương cảnh và cần sự giúp đỡ...
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
(TNT)
- Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào…(Nguyễn Xuân Phúc)
- Đảng tắt thở th́ cuộc đời mới thở. (Nguyễn Chí Thiện)
Cambodia có nhiều nơi mà tên gọi bắt đầu bằng từ ngữ kampong: Kampong Thon, Kampong Speu, Kampong Cham, Kampong Chhnan... Tôi xem bản đồ th́ thấy là những địa danh này đều nằm ở ven sông, rồi hỏi ra mới biết rằng kampong (trong ngôn ngữ Khmer) có nghĩa là bến băi. Cũng tựa như người Việt gọi Bến Thành hay Bến Ngự v́ cả hai ngôi chợ này đều nằm cạnh bờ sông.
Tôi ghé Kampong Chhnan nhiều lần nhưng măi đến hôm rồi mới biết là nơi đây có một xóm nhỏ tên thuần Việt là Bến Ván. Cũng như tất cả những bờ bến khác, Bến Ván nằm sát mé sông (sông Tonlê Sap) cách Phnom Penh chừng 70 km về hướng Bắc. Cứ đi theo quốc lộ 5 – đến ngay cột cây số 66 – sẽ thấy bên phải có ngă rẽ vào một hương lộ nhỏ, vắng tanh.
Xe tiếp tục chạy tung bụi đỏ mịt mù khiến tôi có cảm tưởng là ḿnh sẽ đi vào một ... cơi hư vô nào đó nhưng chả bao lâu th́ chợt thấy lờ mờ phía trước là một đám đông. Hóa ra là một cái chợ lộ thiên. Có lẽ v́ không mấy khi có một chiếc xe bốn bánh lạc lơng tới đây nên ḷng đường bị bạn hàng lấm chiếm đến hơn phân nửa. Phải bóp c̣i inh ỏi không ngừng mới vượt qua thêm được một đoạn đường chỉ chừng hai hay ba trăm mét.
Sau chợ đến chùa, nếu có thể gọi một gian nhà sàn với vài ba tượng phật là một ngôi chùa – chùa Bến Ván. Kề cạnh là một gian khác (nhỏ nhắn hơn) tứ bề cũng trống huơ trống huếch. Bên trong có kê mấy cái bàn thô ráp, hơi dài, được giới thiệu là trường học – trường Bến Ván.
Chùa Bến Ván (Ảnh chụp năm 2018/ TNT)
Trường Bến Ván (TNT)
Thầy trụ tŕ tuy chưa bước vào ngưỡng cửa tứ tuần nhưng tóc đă lốm đốm bạc rồi. Cử chỉ và ngôn từ của ông đều vô cùng điềm đạm:
- Sư đệ mất gần mười năm nhưng mới thực hiện được có bi nhiêu đó thôi à.
- Bộ Phật tử không cúng dường ǵ hết trơn, hết trọi sao?
Nhà sư chỉ tay xuống mấy chục túp lều lụp xụp, bồng bềnh dưới mé sông, với ít nhiều ái ngại:
- Đồng bào ḿnh ở đây nghèo lắm, và đều là dân chài hết nên kêu gọi họ đóng góp chả khác nào khuyến khích sát sanh nên sư đệ sợ mang tội.
- C̣n Hội Việt Kiều có giúp đỡ ǵ ḿnh không sư?
Tôi hỏi theo thói quen nghề nghiệp chớ cũng đă đoán trước được câu trả lời:
- “Không dám giúp đỡ” đâu. Họ không sách nhiễu là mừng muốn chết rồi. May nhờ mấy ông xă ấp người Miên họ thương và bênh vực dữ lắm nên bây giờ mới được yên như vậy đó, chớ mấy năm trước hội cứ cho người tới kiếm chuyện rầy rà hoài hà!
Tôi niệm thầm (“Nam Mô A Di Đà Phật”) thay cho một tiếng thở dài, cố nén:
- Thiệt ra th́ ở đâu có hội này là chỗ đó phải có chuyện thôi, sư ơi.
Tôi nói hết sức nhỏ nhẹ, và cũng rất thực ḷng, như một lời an ủi gửi đến một vị tu sĩ trẻ đang bơ vơ hoằng pháp giữa quê người đất khách. Dù chỉ loanh quanh ở Biển Hồ vài ba năm nay thôi nhưng thái độ, cũng như cung cách làm việc của nhân viên Đại Sứ Quán Việt Nam (và Hội Việt Kiều) ở cái Xứ Chùa Tháp này th́ tôi ... rành lắm. Tôi “đụng chuyện” với họ hoài mà.
Lẽ ra tui cũng không thèm nói đâu nhưng mới rồi nghe ông Nguyễn Xuân Phúc lên giọng giả nhân/giả ngăi (“Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào, đặc biệt lắng nghe những nguyện vọng, những ư kiến đóng góp quư báu của bà con dành cho đất nước ...) nên cũng xin có đôi lời xin thưa cùng “tổ quốc” cho nó tỏ tường.
Là thành viên của một hội thiện nguyện (Hiệp Hội V́ Dân - Vidan Foundation) tôi được cử đến làm việc ở trường làng Kandal – cũng thuộc Kampong Chhnan, cách Bến Ván cỡ 70 cây số về hướng Bắc – do Hội Đồng Hương Perth Tây Úc (cùng với sự bảo trợ của 2VNR Radio) khởi công xây cất từ năm 2010.
Khi tới nơi, vào cuối năm 2014, tôi mới biết rằng ngôi trường khang trang này không có nước cũng không có điện luôn. Loay hoay măi mới bắt được nước, câu được điện, để có thể sử dụng được nhà vệ sinh, và gắn đèn với quạt cho ba lớp học. Trước khi rời khỏi đây, tôi cũng xin được Hiệp Hội cho phép gửi lại một số tiền tráng xi măng nền trường, vốn bằng đất nện, để biến nó thành sân chơi cho học sinh (vào mùa nước cạn) và hẹn sẽ quay lại trước Hè.
Về chưa được nửa đường, mới tới sân bay Taoyuan (Đài Loan) đă nghe có chuyện phiền hà: Hội Việt Kiều cho người tới điều tra coi nguồn tiền ở đâu ra mà bắt nước, kéo điện, lắp đèn, lắp quạt tùm lum thứ vậy? Có biết tên tuổi, lư lịch của người tài trợ không? Họ c̣n đ̣i kiểm soát sách giáo khoa, sợ dậy sai đường lối chính sách, dù trường làng Kandal chỉ dậy tới lớp ba thôi!
Qua năm 2015 - 2016, tôi được cử đi làm việc với mấy trường học có dậy tiếng Việt ở Neak Loeung (tên Việt là Hố Lương) một thành phố nhỏ giáp biên Miên/Việt, cách thủ đô Nam Vang 65 km về hướng Đông Nam.
Th́ cũng gọi là trường v́ quen miệng chứ thực ra th́ đây là những lớp học tuyềnh toàng, tạm bợ. Tuy học phí mỗi ngày chỉ là 500 riels tiền Miên (cỡ 12 xu USD) nhưng số học sinh hiện diện vẫn rất thất thường v́ c̣n tùy thuộc vào khả năng (chạy ăn từng bữa) của cả gia đ́nh.
Trường Hố Lương (Ảnh chụp năm 2016/ TNT)
Trường Hố Lương (TNT)
Với khả năng tài chính (rất giới hạn) của Hiệp Hội, chúng tôi chỉ có thể thực hiện được những trợ giúp vô cùng nhỏ nhặt: tặng sách bút chỗ này, thêm bàn ghế chỗ kia, cơi nới chỗ nọ cho thêm rộng, và mọi trường đều được tài trợ để cả thầy lẫn tṛ yên tâm hơn ... trên con đường học vấn!
Chỉ vậy thôi nhưng khi chúng tôi trở lại lần thứ hai là có chuyện liền. Đang ngồi ăn trưa tại nhà của một người dân địa phương th́ mấy cái xe Honda đă lạng tới lạng lui trước cửa, với mấy khuôn mặt rất cô hồn cùng ánh mắt vô cùng soi mói.
- Đám công an bên Hồng Ngự đó. Sao mà họ biết tin lẹ quá, vậy Trời!
Chủ nhà nói như than. Ngay sau đó th́ điện thoại kêu. Không rơ nội dung cuộc điện đàm ra sao, chỉ nghe khổ chủ cuống quưt vâng dạ liên hồi. Xong, ông nhỏ giọng phân trần:
- Nhân quyền không biết ở tận đâu, chớ chính quyền th́ gần lắm. Dù nằm ở bên kia biên giới nhưng đồn công an Hồng Ngự chỉ cách nhà tui có vài chục cây số thôi hà!
Ngay lúc đó, tôi thực t́nh không tin rằng đám công an VN có thể lộng hành đến như vậy trên lănh thổ của một nước láng giềng có chủ quyền. Chả qua v́ dân Việt ở Cambodia hiền lành quá nên bị họ bắt nạt thôi. Nhưng đến giờ th́ tôi biết rằng ḿnh lầm lớn, và lầm lắm.
Ngày 17 tháng 2, 2018 vừa qua, nữ biên tập viên Zeitmagazin cho hay rằng mật vụ Việt Nam có thể sẽ vươn tay tới những người bất đồng chính kiến tại Đức. Hai hôm sau, tờ báo này cho biết thêm: “Ngay tại nước Đức người Việt Nam cũng không nên nói và viết lên sự thật – bằng không họ sẽ bị hăm dọa và tấn công.”'
Giữa thủ đô Đức Quốc mà đám đàn em của Đại Sứ Côn Đồ Đoàn Xuân Hưng c̣n dám hăm he cho nhà báo Bùi Thanh Hiếu và Lê Trung Khoa “ăn tiết canh ngan” th́ xá chi cái mạng (nhỏ xíu xiu) của một ông kiều bào vô danh, đang sống lây lất ngay sát cạnh ranh giới Việt/Miên.
Kiều bào Cambodia (Ảnh chụp năm 2017/ TNT)
Hung hăn như vậy đó nhưng khi “Campuchia tước quyền công dân 70,000 người gốc Việt” th́ tất cả im re. Bản tin của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Cambodia c̣n không hề có được một ḍng chữ nào về sự kiện vô đạo lư và pháp lư này. Trong lúc thiên hạ vô cùng hoang mang th́ người phát ngôn của bộ ngoại giao ta, bà Lê Thị Thu Hằng, “phát ra” một câu thúi hoắc – nghe như tiếng rắm:
Việt Nam và Campuchia có quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống tốt đẹp. Cộng đồng người Campuchia gốc Việt sinh sống ở Campuchia đă có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Campuchia cũng như vun đắp quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Trên tinh thần đó, Việt Nam mong muốn Campuchia tiếp tục tạo điều kiện pháp lư thuận lợi và có biện pháp phù hợp để đảm bảo các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người Campuchia gốc Việt.
Sau bà Hằng lại đến ông Phúc: “Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào...”
Tôi lạy cả ông lẫn bà, đám dân trôi sông lạc chợ ở Cambodia đă khổ lắm rồi, cho họ xin hai chữ b́nh an đi! (tnt)