05/12/20
Khi nền kinh tế Mỹ lâm vào t́nh trạng tŕ trệ do dịch bệnh như hiện tại th́ chính phủ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xuất ngân quỹ hàng ngh́n tỷ để cứu trợ khẩn cấp.
Thâm hụt ngân sách Mỹ cao kỷ lục
Hăng tin AP đưa tin, nước Mỹ đă chi gần 3 ngh́n tỷ USD từ ngân sách để giải cứu nền kinh tế khỏi những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Một khoản tiền khổng lồ mà chỉ mấy tháng trước khó ai tưởng tượng ra được. Điều ngạc nhiên hơn nữa thậm chí ngay cả khi thảo luận về vấn đề này với những người chuyên chỉ trích về t́nh trạng thâm hụt ngân sách của chính phủ th́ họ đều không phản đối ǵ cả.
Lư giải cho việc thay đổi thái độ của ḿnh họ cho biết khi nền kinh tế Mỹ lâm vào t́nh trạng tŕ trệ do dịch bệnh như hiện tại th́ chính phủ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xuất ngân quỹ hàng ngh́n tỷ để cứu trợ khẩn cấp. Nếu không làm như vậy th́ thực sự sẽ là một thảm họa v́ một cuộc suy thoái có thể phát triển cuộc khủng hoảng toàn diện. Và nếu kịch bản này xảy ra, cán cân tài chính của chính phủ c̣n mất cân bằng nghiêm trọng hơn nữa.
Hơn nữa, những bài học về Thế chiến II và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đă giúp nhiều người nhận ra việc triển khai mức lăi suất cực thấp và tăng trưởng kinh tế sẽ là nhân tố kiểm soát được các khoản nợ công và ngăn chặn một khủng hoảng ngân sách.
Dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư lo lắng về suy thoái kinh tế hơn là việc chính phủ Mỹ có khả năng trả nợ công đang leo thang hay không chính là tỷ suất sinh lợi của trái phiếu kho bạc 10 năm của Mỹ vẫn ở mức dưới 1%.
Nhiều nhà phân tích cho rằng trong khi nợ công tăng vọt cuối cùng có thể làm chậm quá tŕnh phục hồi kinh tế nhưng nếu chính phủ không vay tiền và chi tiêu mạnh tay như hiện tại th́ thậm chí c̣n nền kinh tế sẽ không có cơ hội hồi phục.
“Giống như hầu hết mọi người, tôi bây giờ không quá quan tâm đến t́nh trạng thâm hụt và vay nợ nữa. Lăi suất vẫn duy tŕ ở mức thấp. Trước mắt cần ưu tiên cao nhất cho y tế và kinh tế”, ông Donald Marron, Giám đốc Trung tâm chính sách thuế, một tổ chức nghiên cứu chiến lược tại Washington nói.
Tuy vậy, những con số trong chiến dịch cứu trợ kinh tế rất đáng chú ư. Theo Văn pḥng Ngân sách Quốc hội (CBO), sau khi Quốc hội thông qua bốn chương tŕnh lèo lái nền kinh tế qua “cơn băo” mang tên COVID-19, mức thâm hụt ngân sách của nước Mỹ đă tăng cao kỷ lục ở mức 3,7 ngh́n tỷ USD.
Đầu tuần trước, Bộ Tài chính Mỹ đă thông báo, họ sẽ vay 2,99 ngh́n tỷ USD trong quư II, phá vỡ kỷ lục quư I trước đó là 569 tỷ USD. Kỉ lục này được thiết lập trong cuộc suy thoái năm 2008 và vượt xa giá trị trái phiếu nước Mỹ phát hành trong cả năm ngoái là 1,28 ngh́n tỷ USD. Cũng theo CBO, khi năm ngân sách kết thúc vào tháng 9 năm nay, khoản nợ công của nền kinh tế số 1 thế giới sẽ tương đương 101% GDP.
Các nhà hoạch định chính sách cũng đang nỗ lực để t́nh huống này không xảy ra. Lệnh phong tỏa và hạn chế đi lại đang làm xói ṃn nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP quư II dự kiến sẽ giảm ở mức 40% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây sẽ là quư tồi tệ nhất kể từ năm 1947. 30 triệu người Mỹ đă nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát.
Ngay trước đại dịch, khoản nợ công cũng đă chiếm tới hơn 80% GDP do quyết định giảm thuế hồi năm 2017 của Tổng thống Donald Trump. Tỉ lệ nợ này cũng là mức cao nhất kể từ năm 1950. Nước Mỹ chẳng xa lạ ǵ với t́nh trạng nợ “đầm đ́a” như thế này. Hồi năm 1946, một năm sau khi Thế chiến II kết thúc, nợ liên bang đă chiếm tới gần 109% GDP. Đến năm 1962, gánh nặng nợ đă giảm xuống dưới mức năm1940 chỉ chiếm 44% GDP. Nền kinh tế hậu chiến tăng trưởng mạnh đă lấp đấy kho bạc vốn trống rỗng của chính phủ.
Giới phê b́nh: Chấp nhận chồng chất nợ để cứu kinh tế
Bây giờ mọi thứ đă khác. Nền kinh tế không đạt tốc độ tăng trưởng nhanh như vậy. Từ năm 1947- 1962, nền kinh tế Mỹ đă phát triển thần kỳ, mỗi năm đều tăng trưởng 3.5%. Hiện tại, kinh tế Mỹ sẽ chưa thể đạt thành tựu ǵ ấn tượng cả. Kể từ năm 2010, tăng trưởng GDP trung b́nh của nước này ở mức 2,3%/ năm.
Các nhà kinh tế học từ lâu đă lo lắng về hậu quả của các khoản nợ công lớn của chính phủ. Khi chính phủ phải vay nợ, tức là nhà nước phải cạnh tranh với tư nhân. Điều này sẽ khiến cho thị trường đầu tư tư nhân cạnh tranh hơn, tăng lăi suất và sụt giảm tăng trưởng kinh tế. Nhưng sau cuộc khủng hoảng tài chính, các nhà kinh tế bắt đầu suy nghĩ lại về cách tiếp cận nợ. Sự phục hồi từ cuộc Đại suy thoái, ở Mỹ và đặc biệt là ở Châu Âu, diễn ra chậm chạp một phần v́ các nhà hoạch định chính sách đă từ chối vay nợ để kích thích tăng trưởng kinh tế. 19 quốc gia châu Âu sử dụng chung đồng euro đă lâm vào suy thoái vào năm 2011. Khi đó, vấn đề nợ công c̣n trở nên nghiêm trọng hơn.
Tại Mỹ, lăi suất không tăng lên nhiều ngay cả khi nền kinh tế dần dần hồi phục. Nguyên nhân là các nhà đầu tư luôn muốn được sở hữu trái phiếu kho bạc Mỹ, do đây là kênh đầu tư an toàn nhất thế giới. Việc họ nhanh chóng thu mua trái phiếu đă kéo giảm lăi suất đi vay của chính phủ và đồng thời giữ tỉ lệ lạm phát ở mức thấp.
Trong một nền kinh tế tỉ lệ lạm phát và lăi suất thấp như vậy, rủi ro núi nợ công ở mức dễ kiểm soát hơn, ít nhất là đối với các quốc gia như Mỹ và Nhật Bản vay bằng đồng nội tệ. Ông Douglas Elmendorf, cựu Giám đốc CBO và hiện là trưởng khoa Trường Kinh doanh Harvard, một nhà phê b́nh về t́nh trạng nợ công cao, nói rằng: “Chúng ta không lo lắng về nợ công nhiều như mức các nhà kinh tế đồn đoán”.
Ngày nay, các nhà hoạch định chính sách của nước Mỹ nhận được sự hỗ trợ tối đa của Cục Dự trữ Liên bang (Fed), định chế tài chế sẵn sàng in thêm tiền và giữ mức lăi suất đi vay ở mức cực thấp.
Trong cuộc họp báo hai tuần trước, Chủ tịch Fed Jerome Powell đă có một động thái bất thường khi kêu gọi quốc hội không nên lo lắng về hệ quả nợ công tăng cao từ các chương tŕnh cứu trợ kinh tế của chính phủ.
“Từ lâu, tôi luôn ủng hộ nước Mỹ duy tŕ cán cân tài chính cân bằng. Tuy vậy, lúc này không phải là thời điểm thích hợp cho mối bận tâm đó. Đây là thời điểm chúng ta sử dụng công cụ tài khóa hùng mạnh của nước Mỹ để hỗ trợ nên kinh tế vượt qua sóng gió từ đại dịch COVID-19”, ông Powell nói.
Đồng quan điểm như trên, ông Olivier Blanchard, cựu kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ quốc tế, đă phản đối về quan điểm cũ về nợ công trong một bài phát biểu năm ngoái:
“Nói một cách thẳng thắn, nợ công có thể không tạo ra chi phí tài khóa ǵ… Chính phủ Mỹ hoàn toàn có thể thực hiện tái đầu tư nợ, họ có thể phát hành nợ và giảm tỉ lệ nợ so với GDP mà sau đó không phải tăng thuế”.
Ông Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng tại Hăng phân tích Moody, cho biết lăi suất sẽ bắt đầu tăng lên khi nền kinh tế hồi phục, có thể vào năm 2022 hoặc 2023.
“Sẽ có ngày chúng ta sẽ hồi tưởng lại ngày hôm nay khi chúng tôi hành động với tư cách một quốc gia phải đối mặt với t́nh trạng thâm hụt ngân sách và nợ nần chồng chất. Chúng tôi sẽ phải tăng thuế và kiềm chế chi tiêu. Nhưng hiện tại chúng ta phải làm tất cả mọi việc để giúp nền kinh tế không sụp đổ v́ dịch bệnh”.
Ông Richard Kogan, thành viên cao cấp tại Trung tâm ưu tiên chính sách và ngân sách và là cố vấn ngân sách trong chính quyền cựu Tổng thống Barack Obama nói:
“Không nên đặt câu hỏi hỏi chi phí hồi phục kinh tế sẽ là bao nhiêu. Câu hỏi đúng nên là số nợ sẽ tăng lên bao nhiêu nếu kinh tế hồi phục và không hồi phục”,
TCHK
(Theo AP)