Tại sao lại gọi là Ngựa Thượng Tứ ?
Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chỉ vùng vằng,
người ta thường ví kẻ đó như Con ngựa Thượng Tứ . Thượng là thuộc về của Vua . Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo .
Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho vua . Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần . Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng th́ có gọi là “ngựa Thượng Tứ” cũng đúng thôi .
Cửa Đông Nam v́ ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ, không ai c̣n để ư đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa .
Chợ Đông Ba hay chợ Đông Hoa ?
Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa – cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa . Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc .
Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa . Chỉ v́ tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba v́ tên Hoa là tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân hoàng hậu, gốc người Biên Ḥa (Nam Bộ) .
Nếu ta nghe người Huế xưa gọi “Ánh sáng” là “Yến sáng'” th́ cũng đừng ngạc nhiên v́ họ sợ phạm húy bởi “Ánh” là tên vua Gia Long nên phải đổi ra thành Yến .
Lăo thi ông Ưng B́nh Thúc Giạ khi làm thơ cũng đổi chữ “cánh phồn hoa” ra “cánh phiền ba” bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy v́ ông là người trong Hoàng tộc .
Người Huế mà không được nói...tiếng Huế !
Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn . Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc . Phường Đúc là khu quần cư tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều d́nh tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra .
Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu vị Thần Công và Cửu Đỉnh ở Huế . Những sản phẩm của họ dăi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có t́ vết ǵ . Họ mang theo gia đ́nh ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên ḥa đồng ngôn ngữ với dân địa phương .
Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia . Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam, ai không tuân th́ bị tội .
Tại sao lại có hiện tượng này ? Kể cũng khó hiểu . Và lệnh này có từ đời nào ? Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Bộ, con gái của Đại thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định .
Bà được phong Nghi Thiên Chương Hoàng hậu, lấy vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận “hậu cần” của Hoàng đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện . Có lẽ bà muốn những người dưới tay ḿnh phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Bộ để trao đổi cho dể hiểu chăng, bởi v́ người Tân Ḥa – Gia Định nghe giọng Huế “đặc sệt” có thể không hiểu mô tê chi cả .
Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng v́ ông này nổi tiếng là ông vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam .
Về giọng nói Phường Đúc th́ cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đă trở thành Huế rặt .
Ngoài ra c̣n có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lăo tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện “câm” đi trong thời gian sáu tháng .
Suốt thời gian này, họ không nói ǵ cả hoặc nói rất ít . Không nói v́ sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng th́ mang họa vào thân . Chờ khi nào thuộc ḷng những chữ “nên tránh” gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi . . . v́ những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép . . . hết câm .