Khi phát hiện bị ung thư vú, bác sĩ da liễu Seema Doshi hoảng sợ, may mắn bà là một trong những bệnh nhân chỉ phải dùng thuốc trị bệnh mà không cần vào hóa chất.
"Thế giới của tôi đảo lộn. Tôi đă nghĩ ‘Xong rồi, ḿnh phải làm hóa trị'", người phụ nữ 46 tuổi kể lại cảm xúc ở thời điểm chẩn đoán. Song bà đă lầm.
Doshi là một trong số những bệnh nhân may mắn được hưởng thành quả của cuộc cách mạng thầm lặng trong điều trị ung thư vú, mục tiêu là giảm số người phải làm hóa trị. Tiến sĩ Gabriel Hortobagyi, chuyên gia tại Trung tâm Ung thư MD Anderson ở Houston, cho biết trong nhiều thập kỷ, hóa trị được coi là lựa chọn căn bản xử lư khối u vú và nhiều bệnh ung thư khác.
Tuy nhiên, theo dữ liệu từ nhiều nguồn và ư kiến của bác sĩ, số bệnh nhân làm hóa trị đă giảm dần theo thời gian. Xét nghiệm di truyền đánh giá được liệu hóa trị có phải liệu pháp tối ưu hay không. Thực tế, uống thuốc là sự lựa chọn tốt hơn đối với nhiều người. Tùy theo t́nh trạng bệnh ung thư, ngày càng nhiều bác sĩ sẵn sàng loại bỏ các h́nh thức chữa bệnh vô ích.
Kết quả, mỗi năm, hàng ngh́n người không phải trải qua giai đoạn hóa trị đáng sợ, kèm rụng tóc, buồn nôn, mệt mỏi, có khả năng gây tổn thương vĩnh viễn cho tim và dây thần kinh. Giảm thiểu hóa trị cũng được ghi nhận ở một số bệnh ung thư khác, như ung thư phổi - nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở Mỹ.
Tuy nhiên, các lựa chọn thay thế hóa trị không phân bổ đồng đều, phần nhiều phụ thuộc vào bệnh viện và từng bác sĩ. Đối với một số bệnh nhân may mắn, mọi thứ đă thay đổi. Hiện, dù chỉ định hóa trị, bác sĩ thường kê ít thuốc trong thời gian ngắn hơn.
Bác sĩ da liễu Seema Doshi (giữa), 46 tuổi, cùng hai con trai. Ảnh: NY Times
Tiến sĩ Lisa Carey, chuyên gia ung thư vú tại Đại học Bắc Carolina, cho biết: "Câu chuyện đă khác hoàn toàn". C̣n tiến sĩ Robert Vonderheide, chuyên gia ung thư phổi Đại học Pennsylvania, nhớ lại ngày đầu hành nghề, khoảng 20 năm về trước.
"Chủ đề hội chẩn khi ấy là ‘Nên cho bệnh nhân dùng hai hay ba loại hóa trị?’", ông kể lại. Thậm chí, các nhà khoa học c̣n thử nghiệm lâm sàng xem 4 liệu tŕnh hóa trị có hiệu quả hơn hay không.
"Giờ th́ chúng tôi có thể gặp bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn cuối và chỉ định ‘Không hóa trị'", ông nói.
Các hướng dẫn điều trị ung thư vú của Viện Ung thư Quốc gia cách đây 30 năm rất khắc nghiệt: hóa trị cho khoảng 95% bệnh nhân.
Sự thay đổi bắt đầu cách đây khoảng 15 năm, khi thuốc điều trị ung thư vú Herceptin được chấp thuận, trở thành giải pháp cho khoảng 30% bệnh nhân có một loại protein đặc biệt trên bề mặt khối u. Nó được dùng song song hóa trị, giảm một nửa nguy cơ tái phát và tử vong v́ ung thư vú.
Theo nghiên cứu, Herceptin hiệu quả khi sử dụng độc lập, không cần kết hợp hóa trị và giúp cải thiện bệnh đáng kể. Đây là thời điểm giới y khoa bắt đầu "phá bỏ định kiến" về hóa trị trong chữa bệnh ung thư.
Song thay đổi liệu pháp tồn tại từ lâu là điều khó khăn. Tiến sĩ Hortobagyi nhận định kê giảm lượng thuốc cũng là quyết định "đáng sợ".
"Việc điều trị nối tiếp điều trị với lời hứa nếu bổ sung thuốc, kết quả có thể cải thiện, dễ dàng hơn rất nhiều", ông nói.
Nhân viên y tế chuẩn bị thuốc ung thư Herceptin tại Maryland, Mỹ. Ảnh: NY Times
Nhiều năm trôi qua, ngày càng nhiều bác sĩ chuyên khoa ung thư thay đổi quan điểm, dựa trên nghiên cứu và thuốc mới. Khảo sát trên gần 3.000 phụ nữ từ năm 2013-2015 cho thấy việc sử dụng hóa trị trong giai đoạn đầu ung thư vú giảm từ 26% xuống c̣n 14%. Những người bị ung thư hạch bạch huyết, số liệu tŕnh hoá trị giảm từ 81% xuống 64%.
Theo nghiên cứu gần hơn, thực hiện trên hơn 500 phụ nữ từ 60 tuổi trở lên, số người được hóa trị trong giai đoạn 2012-2019 giảm từ 35% xuống c̣n 19%.
Công nghệ giải tŕnh tự gene với chi phí thấp hơn đóng vai tṛ quan trọng trong sự thay đổi này. Công nghệ giúp bác sĩ kiểm tra khối u dễ dàng, xem liệu chúng có đáp ứng với các loại thuốc hay không. Các xét nghiệm di truyền có thể xem xét mảng protein trên tế bào ung thư, dự đoán chính xác bệnh nhân nào nên và không nên làm hóa trị.
Hiện có ít nhất 14 loại thuốc ung thư mới trên thị trường, ba loại được phê duyệt vào năm ngoái, hàng chục loại khác đang thử nghiệm lâm sàng, hàng trăm ứng viên ở giai đoạn phát triển ban đầu.
Một số bệnh nhân hưởng lợi từ việc điều trị hoàn toàn bằng thuốc, loại bỏ hóa trị. Thời gian sống sót trung b́nh của phụ nữ ung thư vú di căn sử dụng Herceptin tăng lên 20 tháng vào đầu những năm 1990, đến nay là khoảng 57 tháng. Một số người thuyên giảm sau khoảng 10-15 năm kể từ khi bắt đầu điều trị.