Khí mê tan (CH4) tự nhiên thường có ở các mỏ dầu, mỏ khí, mỏ than, bùn ao, hầm biogas, là khí phổ biến, dễ cháy và là 'thủ phạm' gây nhiều vụ ngạt, nổ... nguy hiểm.
Khí mê tan nguy hiểm như thế nào?
Khí mê tan (CH4) là một loại khí không màu, không mùi, nhẹ hơn không khí, không tan trong nước. Tại mỏ than, mê tan tích tụ ở trên nóc ḷ hoặc những khoảng trống không được thông gió được tạo ra song song với quá tŕnh khai thác khoáng sản.
Hàm lượng mê tan khi đạt tới giới hạn nổ có oxy và tia lửa sẽ gây ra nổ khí mê tan. Nhiệt độ tại tâm nổ có thể đạt 1850 độ C và sinh ra một loại khí CO cực độc, loại khí này chỉ cần hít một lượng nhỏ có thể gây tử vong cho người.
Sức nổ của nó gây sóng cuốn bay những ǵ quanh nó và có thể nổ lặp liên tục nếu như liên tục có khí mê tan. Đồng thời nó có thể châm ng̣i cho nổ bụi than, nếu trong hầm ḷ có hàm lượng bụi lớn, các v́ chống thép sẽ bị chảy do nhiệt độ cao gây đổ sập ḷ và khi CO theo gió mang đi khắp đường ḷ gây thương vong trong một diện rộng.
H2S, mê tan, CO đều là khí độc, tác động lên hệ thần kinh, gây hôn mê và tử vong nhanh.
Hiện nay, việc sử dụng giếng đào và hầm khí biogas là rất phổ biến ở các vùng nông thôn. Tai nạn thường xảy ra khi người dân xuống giếng, xuống hầm biogas để vệ sinh giếng, vệ sinh hầm, nhặt các vật dụng bị rơi hay sửa chữa máy bơm, từ đó rất dễ bị tai nạn ngạt thở do khí độc.
Khí biogas gồm khoảng 60% mê tan (CH4), 40% carbonic (CO2) và dưới 1% H2S. Mê tan không màu, không mùi, làm cho khí biogas có thể cháy được, c̣n H2S thường chiếm tỷ lệ ít nhưng làm khí gas có mùi khó chịu.
Khí mê tan thẩm thấu kém qua da, nạn nhân chủ yếu phơi nhiễm do hô hấp. Các dấu hiệu ngộ độc bao gồm buồn nôn, nôn, khó thở, nhịp tim không đều, nhức đầu, buồn ngủ, mệt mỏi, chóng mặt.
Ngộ độc mê tan c̣n gây mất phương hướng, thay đổi tâm trạng, cảm giác ngứa ran, mất khả năng phối hợp, nghẹt thở, co giật, bất tỉnh, hôn mê, thậm chí tử vong do thiếu oxy trong máu.
Quá tŕnh phân hủy yếm khí các chất hữu cơ trong cống rănh c̣n sinh ra một số chất khí độc hại khác như mercaptane (CH3SH), phosphine (PH3), ammonia (NH3), Metylamin (CH3NH2), khiến người tiếp xúc có thể bị ngạt.
Một số vấn đề khác như mực nước trong không gian kín, các sinh vật nhỏ gây hại, dị vật có sẵn, dinh dưỡng không đảm bảo, thiếu dưỡng khí, khiến nạn nhân gặp nhiều nguy hiểm hơn khi mắc kẹt.
Các dấu hiệu nhận biết người bị nạn sắp bị ngộ độc khí mê tan
Ngộ độc khí mê tan là một t́nh trạng nguy hiểm có thể gây ra các triệu chứng và dấu hiệu như sau:
Khó thở hoặc thở nhanh hơn b́nh thường.
Đau đầu, chóng mặt, hoặc mất ư thức.
Buồn nôn hoặc nôn mửa.
Đau bụng, tiêu chảy, hoặc khó tiêu.
Mệt mỏi, khó chịu, hoặc cảm giác lơ đăng.
Tăng nhịp tim hoặc nhịp thở.
Nếu trong môi trường bị ngộ độc khí mê tan, hăy chuyển người đó ra khỏi khu vực nguy hiểm và đưa người bị nạn đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Việc đưa nạn nhân đến cơ sở y tế trong thời gian ngắn nhất là rất quan trọng trong việc cứu sống nạn nhân trong trường hợp bị ngộ độc khí mê tan.
Pḥng ngừa ngộ độc khí mê tan
Để tránh ngộ độc khí mê tan, cần đảm bảo hệ thống thông gió tốt trong những khu vực chứa khí mê tan, đeo các thiết bị bảo hộ và hạn chế việc hoạt động trong các khu vực có nguy cơ bị ngộ độc khí mê tan.
Mọi người cần được tập huấn an toàn lao động kỹ lưỡng. Cần đánh giá điều kiện làm việc trước khi người lao động thực hiện nhiệm vụ để xác định các điều kiện an toàn tối thiểu. Trang bị một số máy đo khí oxy (O2), CH4, NH3, H2S, PH3, Carbon dioxide (CO2). Đảm bảo trang bị và phương tiện đảm bảo an toàn như mặt nạ lọc độc, b́nh dưỡng khí.
Trong quá tŕnh lao động và sinh hoạt nếu phát hiện mùi trứng thối, là mùi đặc trưng của khí H2S cần đi ra ngoài ngay để đảm bảo an toàn. Khi làm việc trong không gian hạn chế, mọi người cần có kinh nghiệm và phương án dự pḥng các t́nh huống bất thường xảy ra, có khả năng sơ cứu cũng như cấp cứu khi cần.
Tại các hộ gia đ́nh có sử dụng biogas, khi quan sát bằng mắt thường thấy có hiện tượng đóng váng khiến khí gas lên ít, biện pháp an toàn nhất là báo cho cơ quan chuyên môn xử lư.
Trong trường hợp tự xử lư cần phải mở nắp hầm ủ khí một thời gian dài để khí mê tan bay hết, sau đó dùng gậy chọc phá lớp váng (màng sinh học), có thể bơm nước vào để đẩy lớp váng ra. Sau khi chọc thủng lớp váng, phải chờ khoảng 2-3 tiếng mới được mở nắp hầm.
Tuyệt đối không tự xuống hầm ủ khí trong bất cứ trường hợp nào, nếu không có sự kiểm tra và hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật. Trong quá tŕnh sử dụng, nếu khí biogas x́ ra ngoài trong pḥng kín hẹp có thể gây ngạt hoặc tạo hỗn hợp nổ với không khí, v́ vậy cần mở cửa nhà bếp thông thoáng trước khi dùng. Trước khi xuống giếng, hầm biogas nên có biện pháp thử xem dưới giếng có khí độc không.
Việc cấp cứu người bị ngạt cầm tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc là nhanh chóng đưa ra khỏi vùng bị ngạt càng sớm càng tốt, bằng mọi cách để nạn nhân hít sâu, thở ra tối đa bằng cách nhắc tự thở (nếu c̣n tri giác) hoặc hô hấp nhân tạo; đồng thời với việc chuyển nạn nhân về tuyến y tế gần nhất để được hỗ trợ kịp thời.