Bác sĩ kiêm khoa học gia có thảo luận về ư đồ nghiên cứu đầy rủi ro của TQ, cách sử dụng các mẫu virus từ Canada, và những hậu quả bất lợi tiềm tàng.
Pḥng thí nghiệm P4 trong khuôn viên Viện Virus học Vũ Hán ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, TQ, vào ngày 13/05/2020. (Ảnh: Hector Retamal/AFP qua Getty Images)
Tiến sĩ Steven Quay, bác sĩ kiêm khoa học gia, cho rằng đợt bùng phát dịch
SARS vào đầu những năm 2000, từng khiến cho hàng ngàn người trên toàn thế giới bị nhiễm bệnh và nhiều người đă tử vong, là một thời cơ để cho Bắc Kinh t́m ṭi học hỏi về mức độ nguy hiểm của những loại virus này.
Tiến sĩ Quay, từng là giảng viên của Trường Y khoa thuộc Đại học Stanford và hiện là Tổng giám đốc của
Atossa Therapeutics, nói với giới truyền thông:
"Bắc Kinh đă bắt đầu xem đây là loại vũ khí sinh học tiềm tàng".
Sau đại dịch COVID-19 ,tiến sĩ Quay lo sợ bệnh dịch tiếp theo có thể ở mức độ gây ra mức tử vong nhiều hơn nếu các nghiên cứu đầy rủi ro về
virus Nipah tại các pḥng thí nghiệm như
Viện Virus học Vũ Hán (WIV) vẫn được tiến hành với mức độ nhiều hơn.
Ông nói,
"Nếu người ta có thể tạo ra một loại vaccine cho chính người dân của ḿnh trước khi phát hành loại vaccine đó … th́ họ thực sự có thể tạo ra một hiệu quả khác biệt. Và đó chính là vũ khí kinh tế, và là vũ khí của sự sợ hăi".
Tiến sĩ Quay cho biết có nhiều bằng chứng cho thấy TQ đang cho tiến hành việc nghiên cứu sâu rộng về
virus Nipah trong pḥng thí nghiệm có tính rủi ro cao. Một số bằng chứng gồm có số liệu từ
WIV, một mặt khác c̣n có liên quan đến việc chuyển các mẫu virus chết người từ pḥng thí nghiệm bảo mật cao của Canada ở Winnipeg đến TQ trước đây.
Nipah, một loại virus có thể lây truyền từ động vật như dơi hoặc heo sang người, có tỷ lệ tử vong rất cao, dao động từ 40% đến 75%. Một số đợt bùng phát virus này đă từng xảy ra và được biết đến, tất cả dịch này đều ở châu Á.
Tiến sĩ Quay cho rằng, nếu các chuyên gia nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm tạo ra các điều kiện tốt cho việc lây truyền
virus Nipah trở nên dễ dàng hơn th́ hậu quả sẽ rất là thảm khốc và kinh hoàng.
Ông cho biết,
"Nếu TQ t́m cách biến loại virus này trở thành vũ khí vi trùng th́ nền văn minh của chúng ta sẽ bị kết thúc".
Tiến sĩ Lâm Hiểu Húc (Sean Lin), cựu Giám đốc pḥng thí nghiệm virus học tại Bệnh viện Bộ Lục quân Walter Reed ở Maryland, cho biết việc ĐCSTQ đang tập trung nghiên cứu về
virus Nipah này khiến cho ông lấy làm lo ngại rất lớn.
"Những người chẳng may bị nhiễm virus Nipah có thể mắc các hội chứng bệnh lư về thần kinh. Họ có thể bị tổn thương ở năo rất nghiêm trọng. Nhưng họ không bị tử vong ngay lập tức, không giống như khi bị nhiễm virus Ebola. V́ vậy, virus này có thể có tạo ra cơ hội tốt hơn để cho lây lan thêm từ vật chủ bị nhiễm bệnh", ông Lâm, một cộng tác viên cho giới truyền thông, cho biết trong một cuộc phỏng vấn.
"Nếu vật chủ có thể sống được lâu hơn và truyền virus từ người sang người nhiều hơn th́ đó sẽ là một vũ khí sinh học tốt hơn. Đó là lư do tại sao mà ĐCSTQ rất quan tâm đến virus Nipah, và đó là lư do tại sao mà tôi nghĩ loại virus này sẽ rất nguy hiểm".
Chuên gia về vi trùng học ông Richard Ebright đồng ư rằng, do những rủi ro có liên quan, nên phải cấm ngay việc nghiên cứu độc hại về loại virus này với ư đồ gia tăng mức độ gây ra tử vong hoặc khả năng lây truyền, c̣n được gọi là
"tăng chức năng" (gain-of-function).
"Nghiên cứu nhằm tăng chức năng và tạo ra mầm bệnh đại dịch tiềm tàng được gia tăng trên virus Nipah gây ra những rủi ro cao đến mức không thể chấp nhận được. Loại nghiên cứu như vậy nên bị cấm, kể cả ở Hoa Kỳ lẫn các quốc gia khác", ông Ebright, giáo sư về hóa học và sinh hóa tại Trường Khoa học và Nghệ thuật Rutgers-New Brunswick, đă viết trong một bức thư điện tử.
Nipah là một loại virus thuộc loại Henipavirus.
Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ đă đưa
virus Nipah vào danh sách các
"chất khủng bố sinh học tiềm tàng" mà chính phủ Hoa Kỳ cần phải lường trước với mức độ ưu tiên cao nhất.
Nhân viên an ninh canh gác bên ngoài Viện Virus học Vũ Hán trong chuyến thăm của nhóm Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được giao nhiệm vụ điều tra nguồn gốc bệnh COVID-19 do virus corona gây ra, ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, vào ngày 03/02/2021. (Ảnh: Hector Retamal/AFP qua Getty Images)
Các bằng chứng
Đánh giá của Tiến sĩ Quay về sự tham gia của
WIV vào nghiên cứu
virus Nipah đầy rủi ro là dựa trên số liệu ban đầu mà các chuyên gia nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm này đưa vào trong một bài nghiên cứu đă được cho xuất bản.
Ông cho biết, trọng tâm chính của bài nghiên cứu này là việc kiểm tra các bệnh nhân COVID-19 giai đoạn đầu vào tháng 12/2019, nhưng số liệu ban đầu cho thấy có đến 20 tạp chất không mong muốn đă xuất hiện ra do việc lây nhiễm chéo từ các nghiên cứu khác của
WIV.
Đối với 19 tạp chất trong số đó, chẳng hạn như của gene cây kim ngân hoa, Tiến si Quay đă có thể t́m thấy các bài nghiên cứu tương ứng do WIV xuất bản, trong đó xác nhận rằng pḥng thí nghiệm này đă tiến hành nghiên cứu về gene này và WIV sẵn sàng công khai để thừa nhận họ đang nghiên cứu loại gene đó. Nhưng đối với một trong những tạp chất mà ông phát hiện ở virus Nipah th́ không thấy có bài nghiên cứu nào được cho xuất bản ra.
Ông nói,
"Đó không chỉ là những mẫu virus b́nh thường, mà đó là những mẫu virus dưới h́nh thức được gọi là một dạng nhân bản dễ lây nhiễm"..
Lấy h́nh ảnh tay cầm của một chiếc chảo chiên làm phép ẩn dụ, Tiến sĩ Quay cho biết loại virus này đă được phát hiện này có
"tay cầm sinh học tổng hợp để đưa các gene di chuyển ṿng quanh".
"Chúng tôi phát hiện ra rằng virus Nipah trong những 'tay cầm' này rất thường được sử dụng để tạo ra các bản sao dễ lây nhiễm. Điều này hoàn toàn đi ngược lại tất cả các quy ước về vũ khí sinh học", ông nói.
Bằng chứng c̣n lại đối với chuyên gia nghiên cứu này là việc Pḥng thí nghiệm Vi sinh Quốc gia (NML) ở Winnipeg, Canada đă chuyển các chủng loại
virus Nipah và
Ebola cho Pḥng thí nghiệm
WIV vào tháng 03/2019.
Bà Khưu Hương Quả (Xiangguo Qiu), cựu khoa học gia của NML, đă giúp tạo ra cơ hội thuận tiện cho việc chuyển giao này. Bà Khưu sau đó đă bị sa thải khỏi pḥng thí nghiệm cùng với chồng bà, cũng là đồng nghiệp, khoa học gia Thành Khắc Định (Keding Cheng), v́ họ có mối dính líu sâu đậm với chính quyền Bắc Kinhvà quân đội Trung Quốc mà không hề tiết lộ ra. Một trong những mối lo ngại mà Cơ quan T́nh báo An ninh Canada (
CSIS) báo động chính là từ việc bà Khưu đă hợp tác với các tướng lănh cao cấp TQ chuyên phụ trách nghiên cứu về vấn đề khủng bố sinh học và pḥng vệ về nguy cơ sinh học.
Tiến sĩ Quay lúc ban đầu không biết,liệu các mẫu virus mà Canada gửi đi có được sử dụng trong nghiên cứu mang tính rủi ro tương tự hay không. Nhưng sau đó ông quan sát thấy chủng loại
virus Nipah mà ông t́m thấy ở
WIV là chủng loại có gốc gác ở Bangladesh. Và một trong những chủng loại virus mà Canada đă gửi đến pḥng thí nghiệm Vũ Hán cũng là loại virus gốc Bangladesh này.
"Tôi đă dành ra khoảng ba tiếng để cho nghiên cứu bộ gene của cả hai chủng loại virus này để biết chắn rằng chúng có giống y hệt với nhau hay không, và đúng là các virus này đều có chung nguồn gốc", ông cho hay.
"Loại virus này đến WIV vào tháng 03/2019. Sau đó, sẽ mất một hoặc hai hoặc ba tuần để đưa chủng này vào một vật chủ trung gian, và tôi t́m thấy virus này trong một vật chủ trung gian vào tháng 12/2019 từ pḥng thí nghiệm. Đó đúng là một thời điểm thật hoàn hảo".
Một bằng cớ khác đối với Tiến sĩ Quay là bài thuyết tŕnh năm 2019 của bà Thạch Chính Lệ (Shi Zhengli), giám đốc của pḥng thí nghiệm
WIV, người thường được gọi là
"Quư bà dơi" v́ công tŕnh nghiên cứu của bà về virus corona ở loài dơi.
Tiến sĩ c̣n cho biết, bài thuyết tŕnh của bà Thạch tại Hội nghị Quốc tế về
virus Nipah ở Singapore, được tổ chức từ ngày 09 đến ngày 11/12 cùng năm đó, cho thấy có sự tham gia của TQ vào việc nghiên cứu về
virus Nipah.
"
Vậy là có ba bằng chứng: Canada chuyển mẫu virus này cho WIV vào tháng Ba 2019. Tôi phát hiện ra virus Nipah được qua sinh học tổng hợp, tăng cường chức năng, đă được đưa vào một vật chủ trung gian vào tháng Mười Hai. Và bài thuyết tŕnh của bà Thạch tại một hội nghị vào tháng Mười Hai nói về việc thực hiện nghiên cứu trên virus Nipah", ông này kết luận.
Ông Lâm nói rằng sự kiện bà Khưu, khoa học gia đă bị sa thải khỏi pḥng thí nghiệm ở Winnipeg, Canada, đă mạo hiểm khi thu hút quá nhiều sự chú ư bằng cách tạo cơ hội thuận tiện cho việc vận chuyển các virus này đến
WIV, cho thấy tầm quan trọng của loại virus này đối với TQ.
"Điều đó có nghĩa là ĐCSTQ rất quan tâm đến loại virus Nipah có thể gây bệnh cao như vậy", ông này nhận định.
Mặc dù các chủng loại
virus Nipah này đă được vận chuyển dưới sự chấp thuận của ban phụ trách pḥng thí nghiệm, nhưng các đảng đối lập và Bộ trưởng An toàn Công cộng đương nhiệm đă cho biết, họ rất ngạc nhiên khi biết về việc vận chuyển
"nguy hiểm" này.
Cơ quan Y tế Công cộng Canada, là cơ quan giám sát NML, trước đây đă nói với giới truyền thông rằng, các chuyến hàng đă được thực hiện theo các thủ tục và quy định phù hợp.
Ông Lâm nói rằng, các trung tâm nghiên cứu và chính phủ ở phương Tây không nên xem các trung tâm nghiên cứu của TQ giống như bất cứ học viện kỹ thuật nào khác, v́ các trung tâm đó là có trách nhiệm sâu đậm với quân đội TQ.
"Dưới cơ chế hợp nhất quân sự-dân sự của ĐCSTQ, nhiều viện nghiên cứu có thể dễ dàng kết hợp với các nhiệm vụ quân sự", ông nói.
Pḥng thí nghiệm Vi sinh Quốc gia ở Winnipeg, Canada (Ảnh: The Canadian Press/John Woods)
Tích cực thí nghiệm
Vào năm 2012, TQ đă báo cáo về các trường hợp bị lây nhiễm loại virus giống Nipah ở các thợ mỏ ở phía Nam của quốc gia này. Loại virus này được đặt tên là
virus Mặc Giang (Mojiang), theo tên huyện Mặc Giang ở tỉnh Vân Nam, nơi có hầm mỏ.
Mỏ này đă trở nên nổi tiếng hơn sau đại dịch Covid 19 khi người ta biết rằng bà Thạch của WIV đă phát hiện ra
virus corona RaTG13 từ những con dơi trong cùng các hầm mỏ này vào năm 2013. Ông Lâm có lưu ư rằng,
RaTG13 rất gần với
SARS-COV-2, loại virus đă gây ra cơn đại dịch COVID-19. Ông nói thêm rằng, chính quyền Bắc Kinh đă liên tục ngăn cản giới khoa học và kư giả bên ngoài được phép tiến hành các cuộc điều tra sâu hơn ở khu mỏ này.
Vào năm 2022, một chủng loại virus khác thuộc họ Henipavirus, có tên là
virus Lang Da (Langya), được t́m thấy ở các tỉnh Sơn Đông và Hà Nam của TQ. Ông Lâm cho biết, không phải
virus Nipah hay
Hendra, vốn là những loại virus thuộc họ Henipavirus được biết đến một cách phổ biến hơn, mà
virus Lang Da mới này là gần giống với
virus Mặc Giang nhất.
Theo một bài nghiên cứu của giới khoa học TQ chuyên nghiên cứu về các trường hợp này, được công bố trên
New England Journal of Medicine (Tập san Y học New England,) các mầm bệnh khác c̣n được phát hiện ở 9 trong số 35 bệnh nhân bị nhiễm
virus Lang Da. Những bệnh nhân này có mang
virus Hanta và bị sốt cao kèm
virus hội chứng giảm tiểu cầu (SFTSV). Ông Lâm lưu ư rằng, mặc dù
virus Hanta và
SFTSV đă trở thành bệnh dịch đặc trưng ở Sơn Đông và Hà Nam, nhưng
việc t́m thấy cả ba loại virus này trong một mẫu cỡ nhỏ vẫn là điều rất bất b́nh thường. Ông cũng lưu ư rằng, các loại virus này rất nguy hiểm, nhưng không có bệnh nhân nào trong số đó bị tử vong sau khi bị nhiễm những loại virus này.
"Tôi nghi ngờ rằng ĐCSTQ đang cho tiến hành một số thử nghiệm tại chỗ đối với các loại virus hiếm khác nhau để xem loại nào có thể lây truyền ở động vật và sau đó sẽ nhanh chóng lây sang người, bởi v́ rất hiếm khi con người lại bị nhiễm hai hoặc ba loại virus hiếm cùng một lúc", ông Lâm nói.
Điều này làm tăng thêm sự nghi ngờ của ông về các tác giả chính của bài nghiên cứu đến từ Viện Vi sinh và Dịch tễ học Bắc Kinh, c̣n được gọi là Viện Vi sinh và Dịch tễ học, Học viện Khoa học Quân y, trực thuộc Quân Giải phóng Nhân dân.
Ông nói:
"Tôi nghĩ ĐCSTQ đang tích cực cho thử nghiệm các phiên bản khác nhau của virus Henipah để xem liệu loại virus này có khả năng thích ứng hơn nữa với khả năng lây nhiễm ở người hay không".
Nền văn minh nhân loại sẽ kết thúc?
Tiến sĩ Quay cho biết,
đại dịch Cái Chết Đen xảy ra vào thế kỷ 14 đă khiến cho châu Âu bị thụt lùi lại cả 250 năm.
Ông cho rằng, trong thế giới hiện đại, nếu một đại dịch nghiêm trọng đến mức làm cho dân số bị giảm đi rất nhiều cùng với sự đứt găy của chuỗi cung ứng năng lượng và thực phẩm quan trọng, gián đoạn giao thông vận tải, và mất đi các dịch vụ như trị an, cứu hỏa, và bệnh viện, th́
"nền văn minh nhân loại sẽ kết thúc".
Ông cho biết thêm, điều này có thể xảy ra với một đại dịch do một loại virus có khả năng gây mức tử vong từ 50% trở lên gây ra.
"SARS-CoV-2 có mức tử vong dưới 1%. V́ vậy, họ đang nghiên cứu bệnh cúm, họ đang nghiên cứu virus Nipah, họ đang nghiên cứu MERS. Tất cả những loại virus đó đều có tỷ lệ gây tử vong từ 30 đến 70%".
Chuyên gia về virus học TQ bà Thạch Chính Lệ được nh́n thấy bên trong pḥng thí nghiệm P4 ở Vũ Hán, TQ, vào ngày 23/02/2017. Bà này sau đó đă chết "bất ngờ". (Ảnh: Johannes Eisele/AFP qua Getty Images)
Nguy cơ sẽ c̣n cao hơn
Tiến sĩ Quay nói rằng, kể từ đại dịch COVID-19, nhiều quốc gia đă cho thành lập các pḥng thí nghiệm để nghiên cứu virus, và điều này sẽ làm tăng thêm mối lo ngại về các đợt bùng phát xảy ra nếu việc nghiên cứu đầy rủi ro vẫn đang tiến hành.
"Chúng ta đă có thêm 50% các pḥng thí nghiệm thực hiện loại công việc nghiên cứu nguy hiểm này trên khắp thế giới, và hơn một nửa trong số đó nằm ở các quốc gia mà Liên Hiệp Quốc xác định là không ổn định về mặt chính trị".
"Điều đó có nghĩa là ǵ? Chà, nếu xảy ra một cuộc nội chiến hoặc có sự lật đổ nào đó, đột nhiên một pḥng thí nghiệm với tất cả những mầm bệnh này sẽ nằm dưới sự kiểm soát của những người mà lẽ ra không được phép kiểm soát và sử dụng".
Ông Lâm đồng ư rằng việc phổ biến rộng răi các nghiên cứu đầy rủi ro về mầm bệnh có thể gây tử vong đặt ra một mối nguy hiểm khôn lường.
"Với sự tiến bộ của kỹ thuật sinh học, kỹ thuật di truyền, con người đang thực hiện ngày càng nhiều thí nghiệm nguy hiểm hơn. Chúng ta cần phải hết sức cảnh giác trước sự nguy hiểm của các mầm bệnh mới xuất hiện. Một mặt là các loại virus mới xuất hiện, thường xuyên hơn trong tự nhiên, hai là sự quan tâm của ĐCSTQ hoặc các nhóm khủng bố khác đang nhắm đến vũ khí sinh học. Đây là những t́nh huống rất nguy hiểm".