VBF-Sự khác nhau giữa “employee” và “self employed/independent contractor” là rất lớn. Thợ Nail là “employee” đúng là nhân viên c̣n “self employed/independent contractor” lại có thể hiểu cách khác. Nếu làm nhân viên th́ chủ tiệm phải khai thuế và giữ lại khoản để nộp. Ngoài ra tiền típ cũng bị đóng thuế. Riêng về đôc lập không phải là nhân viên th́ cứ tưởng tượng như chỉ thuê chỗ ngồi trong đó để đợi khách vào làm và bao nhiêu th́ có thể hưởng.
Hoa Kỳ:
Nghề Nail và Luật Thuế Vụ Liên Bang
* Tom Huỳnh, J.D.
T.Huynh@1stcounsel.c om
Tại Hoa Kỳ, luật thuế vụ liên bang được thi hành bởi cơ quan thuế vụ liên bang IRS (Internal Revenue Service), áp dụng cho người làm việc tại khắp 50 tiểu bang. Ngoài luật thế vụ liên bang, mỗi tiểu bang c̣n có luật thuế vụ riêng, được thi hành bởi cơ quan thuế vụ của tiểu bang.
Trong nghề Nail, luật thuế vụ có những quy định khác biệt tùy vào mối quan hệ kinh doanh giữa chủ tiệm Nail và thợ làm trong tiệm. Mấu chốt tạo ra nhiều khác biệt trong vấn đề thuế vụ cho người trong nghề Nail là việc xác định thợ Nail làm trong tiệm là “employee” (nhân viên của chủ tiệm), hay là “self employed/independent contractor” (người làm việc độc lập/tự doanh).
Khác biệt trong vấn đề thuế vụ giữa “employee” và “self-employed/independent contractor” trong nghề Nail
* “Employee”
Nếu chủ tiệm xác định thợ Nail là “employee,” luật thuế vụ bắt buộc chủ tiệm phải tạm thu một phần tiền lương của người thợ vào mỗi kỳ lương để nộp trước cho cơ quan thuế vụ các khoản thuế lợi tức liên bang (và thuế lợi tức theo luật tiểu bang, nếu có), thuế An Sinh Xă Hội và Medicare theo luật liên bang “Federal Insurance Contributions Act” (FICA), là các khoản thuế căn bản mà người “employee” phải chịu. Mức tạm thu các khoản thuế theo luật FICA sẽ dựa vào thông tin từ mẩu W-4 mà người “employee” nộp cho chủ tiệm khi được thâu nhận. Về phía chủ tiệm cũng phải đóng góp phần thuế An Sinh Xă Hội, Medicare, và bảo hiểm trợ cấp thất nghiệp cho “employee” theo quy định của đạo luật liên bang “Federal Unemployment Tax Act” (FUTA).
Hàng năm, chủ tiệm sẽ cấp mẫu W-2 cho thợ Nail khai thuế lợi tức. Mẫu W-2 sẽ liệt kê tổng số thù lao (gồm cả tiền típ) mà thợ đă nhận, cùng với tiền thuế mà thợ đă đóng bằng phần tiền chủ đă tạm thu trong mỗi kỳ lương. Nói chung, người thợ Nail là “employee” sẽ bị khấu trừ thuế ngay trên mỗi kỳ lương, và chủ tiệm cũng có trách nhiệm đóng thêm các khoản thuế liên quan đến việc thuê mướn “employee” theo quy định của luật thuế liên bang và của tiểu bang, nếu có.
Cũng nên biết rằng theo luật thuế vụ liên bang, tiền "típ" cũng được xem là lợi tức và phải đóng thuế. Luật thuế vụ đ̣i hỏi người thợ Nail là “employee” nếu có nhận “típ” trên $20 mỗi tháng, phải làm mẫu 4070 để báo cho chủ tiệm biết tổng số tiền “típ” nhận được hàng tháng để chủ tiệm tạm thâu thuế theo luật liên bang. Tiền “típ” bao gồm cả tiền mặt và khi khách cho “típ” qua thẻ tín dụng. Về phần chủ tiệm, phải cộng tiền lương và tiền “típ” mà người thợ đă nhận để tính ra số thuế cần tạm thu và phần thuế mà chủ tiệm phải đóng góp khi trả lương cho người thợ. Trên mẫu W-2 cấp cho người thợ Nail khai thuế hàng năm, tổng số tiền “típ” cũng phải được tính chung như là tiền lương mà người thợ này đă nhận lănh.
“Self- employed/Independent contractor”
Trên nguyên tắc của luật thuế vụ liên bang, hầu hết những người đi làm tại Hoa Kỳ và được trả tiền công, dầu làm part-time hay full-time, thường được xem là “employee,” có nghĩa là nhân viên của chủ. Tuy nhiên, không phải tất cả những người đi làm đều là “employee.” Trong một số ngành nghề mà trong đó có nghề làm Nail, người thợ Nail vừa có thể là “employee,” nhưng cũng có thể là “self-employed/independent contractor” làm việc độc lập, không dưới sự điều khiển và kiểm soát của chủ. Theo luật thuế vụ liên bang, nếu người thợ Nail là “self/employed/independent contractor,” chủ tiệm sẽ không cần tạm thu hay đóng góp bất cứ loại thuế nào cho người thợ đó.
Tuy nhiên, nhằm ngăn chận t́nh trạng chủ tiệm Nail phân loại thợ Nail là “self employed/independent contractor” không đúng luật để tránh thi hành các quy định về thuế vụ áp dụng đối với “employee,” cơ quan IRS khi kiểm toán một tiệm Nail thường đ̣i hỏi chủ tiệm nếu không cấp mẫu W-2 cho thợ, th́ phải có đủ dữ kiện để chứng minh người thợ Nail đó là “self employed/independent contractor” dựa trên những trắc nghiệm của IRS. Nếu cơ quan IRS xác định người thợ là “employee,” chủ tiệm có thể bị phạt rất nặng v́ đă phạm luật thuế vụ.
Thông thường, người thợ Nail làm việc dưới dạng “self employed/independent contractor” là người thuê chỗ làm việc độc lập trong tiệm Nail. Người “self employed/independent contractor” sẽ nhận 100% số tiền của khách hàng trả cho, rồi thanh toán tiền thuê chỗ làm cho chủ tiệm theo sự thỏa thuận giữa đôi bên. Căn cứ trên một vài án lệ của ṭa án thuế vụ liên bang (U.S. Tax Court), người thợ Nail là “self employed/independent contractor” có thể trả tiền thuê chỗ làm việc theo phần trăm của tổng số lợi tức hàng tuần mà người thợ làm được, nhưng phải có một giá thuê tối thiểu. Và người “self employed/independent contractor” có bổn phận phải đóng thuế tự doanh trên lợi tức của ḿnh theo quy định của luật liên bang Self-Employment Contributions Act (SECA). Theo luật của một số tiểu bang, người thợ Nail làm việc độc lập c̣n được gọi là “chair/booth/space renter,” và được kể như là người đi thuê chỗ để làm việc trong tiệm của chủ.
* Thế nào là “Self Employed/Independent Contractor” theo luật thuế vụ liên bang?
Để có thể tận thu các khoản thuế do liên bang quy định, cơ quan IRS rất quan tâm đến vấn đề người lao động là “employee” hay “independent contractor.” Cần lưu ư rằng theo luật thuế vụ liên bang, người thợ Nail là “employee” hay “independent contractor” không phải đơn giản là tùy vào ư muốn của chủ tiệm hay của người thợ Nail, mà phải hội đủ một số điều kiện dựa trên những yếu tố trắc nghiệm do cơ quan thuế vụ IRS đề ra.
Theo cơ quan IRS, người lao động được xem là “employee” nếu người đó phải làm việc theo các nguyên tắc của chủ; được sự huấn luyện hoặc chỉ dẫn của chủ; làm một công việc đồng nhất với việc kinh doanh của chủ; phải tự ḿnh làm việc chứ không được cho người khác thầu lại; làm việc thường xuyên và dài hạn với một chủ; phải làm theo ngày giờ ấn định; phải làm việc tại cơ sở của chủ; phải thường xuyên báo cáo công việc với chủ; được trả lương theo định kỳ; được bồi hoàn các phí tổn liên hệ đến việc làm; dùng dụng cụ và vật liệu của chủ; không có vấn đề lời hay bị lỗ lă trong công việc; chỉ làm việc cho một người chủ chứ không quảng cáo việc làm của ḿnh cho công chúng; có thể bị sa thải hay tự động nghỉ việc bất kỳ lúc nào mà không bị trách nhiệm.
Cũng theo cơ quan IRS, người nào đi làm mà không ở vào các trường hợp vừa kể trên đây th́ sẽ có thể được xem là “self employed/independent contractor” trong vấn đề thuế vụ của liên bang.