12/28
Chính phủ Hoa Kỳ và Châu Âu nên ngừng sử dụng các lănh thổ nhỏ của Anh làm con tốt để cho phép các tập đoàn tránh đóng góp tài trợ cho trường học, đường xá và an toàn công cộng.
Lợi nhuận của các tập đoàn toàn cầu nên bị đánh thuế ở đâu? Nó không phải là một câu hỏi dễ dàng. Nếu một công ty có các kỹ sư ở California, các trung tâm sản xuất ở châu Á, các nhà máy lắp ráp ở Texas và bán cho người tiêu dùng trên khắp Bắc Mỹ và châu Âu, sẽ có những câu hỏi chính đáng về việc họ đang “kiếm” lợi nhuận ở khu vực pháp lư nào và do đó họ có thể nợ công ty ở đâu.
Tuy nhiên, có một điều rơ ràng: họ không kiếm được lợi nhuận ở Quần đảo Cayman, một lănh thổ nhỏ của Anh ở Caribe mà các chính trị gia ở London và Washington coi là một quốc gia độc lập v́ mục đích thuế.
Tuy nhiên, nhiều tập đoàn Mỹ nói với Sở Thuế vụ rằng họ kiếm được lợi nhuận ở quốc đảo này, nơi họ không kinh doanh thực tế. Một ṭa nhà văn pḥng ở Quần đảo Cayman—chỉ cao năm tầng—là trụ sở của hơn 18.000 công ty.
Cho rằng chính phủ Anh đă cung cấp một vài lựa chọn cho sự phát triển kinh tế thực sự, nhưng đây có phải là cách để cấu trúc một hệ thống thuế quốc tế hay không?
Gần như mọi quốc gia, từ Hoa Kỳ đến Vương quốc Anh đến Quần đảo Cayman, gần đây đă quyết định là không. Trong hai năm qua, chính quyền Biden đă dẫn đầu các cuộc đàm phán về một thỏa thuận quốc tế với các nền kinh tế hàng đầu khác nhằm đảm bảo các tập đoàn đa quốc gia lớn nhất phải nộp thuế tại các quốc gia nơi họ kinh doanh. Kế hoạch này sẽ yêu cầu bất kỳ công ty nào kiếm được hơn 750 triệu euro (khoảng 800 triệu USD) phải trả ít nhất 15% thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lợi nhuận toàn cầu của họ tại các quốc gia nơi họ có hoạt động kinh tế.
Tuần trước, Liên minh châu Âu đă đạt được thỏa thuận nhất trí để thực hiện mức thuế tối thiểu toàn cầu này bắt đầu từ năm 2024. Với việc EU và Vương quốc Anh hoàn toàn đồng ư, đă đến lúc Quốc hội Hoa Kỳ phải tuân theo và thực hiện kế hoạch do chính quyền đàm phán. Làm như vậy sẽ cải thiện hệ thống thuế doanh nghiệp ở đây và trên toàn thế giới đồng thời làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ mạnh hơn và cạnh tranh hơn.
Hệ thống thuế toàn cầu hiện tại ủng hộ các thiên đường thuế nhỏ và các tập đoàn lớn.
Trong khi thuế suất doanh nghiệp chính thức ở Hoa Kỳ là 21 phần trăm, các tập đoàn sử dụng nhiều chiến thuật để trả ít hơn một cách hiệu quả. Chiến thuật khét tiếng nhất trong số này khai thác mánh lới quảng cáo kế toán để làm cho lợi nhuận của công ty dường như kiếm được ở các thiên đường thuế như Quần đảo Cayman hoặc Ireland.
Ví dụ: một công ty Hoa Kỳ có thể đăng kư bằng sáng chế hoặc nhăn hiệu cho một công ty con được thành lập tại một quốc gia sẽ đánh thuế ít hoặc không đánh vào lợi nhuận của công ty đó, ngay cả khi công ty không có hoạt động kinh doanh nào khác ở quốc gia đó. Sau đó, nó sẽ nói với IRS rằng lợi nhuận của nó được tạo ra từ tài sản trí tuệ đó, điều này có nghĩa là lợi nhuận được tạo ra bởi công ty con của thiên đường thuế chứ không phải ở Hoa Kỳ.
Ví dụ, Nike sở hữu nhiều công ty con mang tên các ḍng sản phẩm phổ biến ở các quốc gia như Bermuda và Hà Lan không áp dụng thuế hoặc thuế dễ dàng tránh được. Không cần phải là một thiên tài để kết luận rằng Nike đă đặt nhăn hiệu cho từng ḍng sản phẩm của ḿnh ở một trong những công ty con của các thiên đường thuế này và sau đó nói với IRS rằng lợi nhuận do đó được tạo ra ở nước ngoài tại các khu vực tài phán này, nơi chúng sẽ không bị đánh thuế.
Trong một số trường hợp, sự khác biệt giữa lợi nhuận được tuyên bố và hoạt động kinh tế thực tế là đặc biệt nghiêm trọng. Năm 2019, các tập đoàn Hoa Kỳ tuyên bố kiếm được lợi nhuận ở 5 quốc gia khác nhau, vượt quá tổng sản lượng kinh tế của các quốc gia đó. Các công ty Mỹ tuyên bố kiếm được hơn 60 tỷ đô la ở Quần đảo Cayman—gấp mười lần tổng sản phẩm quốc nội của cả nước. Năm trước , các tập đoàn Mỹ tuyên bố đă kiếm được hơn 13 lần GDP của Bermuda ở Bermuda.
Trong một minh chứng khác về việc báo cáo thuế này khác với thực tế như thế nào, dữ liệu của IRS cho thấy các công ty này thường có rất ít nhân viên ở các quốc gia mà họ tuyên bố kiếm được lợi nhuận. Nếu hồ sơ thuế được tin tưởng, th́ các tập đoàn Mỹ đă kiếm được gần 60 triệu đô la cho mỗi nhân viên mà họ thuê trên lănh thổ Gibraltar nhỏ bé của Anh. Nếu các tập đoàn đa quốc gia thực sự khai thác nhiều năng suất như vậy từ công nhân của Gibraltar, th́ câu đố kinh tế của thiên niên kỷ sẽ là làm thế nào mà tổng GDP của đất nước chỉ lên tới khoảng 60.000 USD/người. Tuy nhiên, câu trả lời thực sự rất rơ ràng: báo cáo thuế không phản ảnh thực tế của nền kinh tế.
Các công ty không nhất thiết vi phạm pháp luật khi họ báo cáo lợi nhuận rơ ràng là không hợp lư cho IRS. Thay vào đó, họ đang khai thác những điểm yếu trong hệ thống luật pháp và thuế toàn cầu. Kết quả là một hệ thống thuế không dành cho ai khác ngoài các cổ đông doanh nghiệp giàu có và ngành dịch vụ tài chính. Các tập đoàn đa quốc gia tận dụng lao động của các nước lớn như Mỹ và Trung Quốc được phát triển thông qua giáo dục công, các tuyến vận tải quốc tế được Hải quân Hoa Kỳ bảo vệ phần lớn, các thị trường chỉ có thể thông qua các cảng và đường bộ công cộng.
Hiệp định quốc tế mới sẽ chấm dứt hành vi trốn thuế ra nước ngoài của các tập đoàn lớn.
Nhận thấy nhu cầu hợp tác quốc tế về vấn đề này, Chính quyền Biden đă bắt đầu đàm phán với các nền kinh tế lớn khác vào năm ngoái để tạo ra một hệ thống thuế toàn cầu công bằng và hiệu quả hơn. Vào tháng 10 năm 2021, 136 quốc gia đă kư thỏa thuận khai triển hệ thống thuế tối thiểu toàn cầu. Nếu được thực hiện, hiệp định sẽ đảm bảo rằng các tập đoàn lớn, đa quốc gia phải trả mức thuế tối thiểu ít nhất là 15%.
Các chi tiết chính xác rất phức tạp, nhưng mấu chốt là các công ty sẽ phải bắt đầu nộp thuế theo nơi họ bán sản phẩm và dịch vụ thay v́ nơi họ đăng kư hộp thư bưu điện. Các quy tắc của GLoBE sẽ áp dụng cho các tập đoàn có doanh thu hơn €750 triệu trong những năm gần đây—hoặc khoảng $800 triệu. Thuế suất thực tế có hiệu lực mà các công ty này phải trả ít nhất phải là 15 phần trăm không bao gồm các khoản khấu trừ khấu hao hoặc các khoản tín dụng thuế nhất định.
Đầu tiên, Quy tắc bao gồm thu nhập (IIR) cho phép các quốc gia thực hiện thuế tối thiểu áp dụng thuế bổ sung cho các công ty có trụ sở chính trong biên giới của họ nếu công ty đang trả mức thuế hiệu quả dưới 15 phần trăm ở một quốc gia khác nơi công ty hoạt động. Điều này có nghĩa là nếu một công ty có trụ sở tại một quốc gia đă thực hiện thỏa thuận, th́ quốc gia đó có thể áp dụng thuế bổ sung đối với lợi nhuận của công ty tại thiên đường thuế để đưa mức thuế suất thực tế lên tới 15%.
Thứ hai, Quy tắc thanh toán chịu thuế (UTPR) cho phép các quốc gia áp dụng thuế bổ sung đối với các công ty nước ngoài hoạt động trong biên giới của họ nếu quốc gia sở tại của công ty không thực hiện các quy tắc GLoBE và công ty đang trả mức thuế hiệu quả thấp hơn 15 phần trăm ở một số quốc gia khác. Điều này có nghĩa là nếu một quốc gia không thực hiện thỏa thuận quốc tế, th́ các tập đoàn của chính quốc gia đó vẫn có thể phải trả mức thuế ít nhất là 15 phần trăm v́ các quốc gia khác nơi các công ty đó hoạt động đang áp đặt thuế bổ sung theo UTPR. Và quốc gia không thực hiện mức thuế tối thiểu sẽ cho phép các chính phủ nước ngoài thu khoản thu này.
Mặc dù một thỏa thuận đă được kư kết vào tháng 10 năm ngoái bởi tất cả các nền kinh tế lớn để thực hiện các quy tắc GLoBE, quá tŕnh thực hiện thực tế là bước khó khăn nhất. Các quốc gia phải làm việc trong khuôn khổ các quy tŕnh chính trị và lập pháp của ḿnh để điều chỉnh hiệp định quốc tế vào hệ thống thuế của ḿnh. Quyết định của Liên minh châu Âu về việc thực thi các quy tắc bắt đầu từ năm 2024 đánh dấu động lực quan trọng cho thỏa thuận, đặc biệt là sau khi Vương quốc Anh trước đó tuyên bố họ sẽ bắt đầu thực thi các quy tắc vào cùng năm đó. Vương quốc Anh và EU cộng lại đại diện cho khoảng 1/5 toàn bộ nền kinh tế thế giới.
Hoa Kỳ là rào cản lớn cuối cùng đối với việc thực hiện quốc tế?
Mặc dù đă đàm phán về các quy tắc GLoBE, Hoa Kỳ vẫn chưa thực hiện các bước để thực hiện đầy đủ các quy tắc đó. Mặc dù Hoa Kỳ có các quy định về thuế đối với “thu nhập vô h́nh có mức thuế thấp toàn cầu” (GILTI) tương tự như các quy định của GLoBE, thuế GILTI áp dụng cho một phần thu nhập nhỏ hơn và chỉ ở mức 10,5 phần trăm. Hoa Kỳ cũng áp dụng mức thuế tối thiểu 15% dành cho doanh nghiệp vào năm 2022 như một phần của Đạo luật giảm lạm phát, nhưng mức thuế đó cũng không hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận quốc tế. Ví dụ: thuế tối thiểu IRA xem xét thuế suất hiệu lực trên toàn thế giới của công ty thay v́ thuế suất theo quốc gia của họ.
Mặc dù Hoa Kỳ đă kư thỏa thuận vào tháng 10 năm ngoái, nhưng việc thực hiện sẽ yêu cầu Quốc hội thông qua các thay đổi lập pháp đối với luật thuế của chúng tôi. Triển vọng Hoa Kỳ thực hiện các quy tắc vào năm 2024 có vẻ mờ mịt, với việc Quốc hội lần thứ 117 sắp kết thúc mà không thông qua các quy tắc mới và với các đảng viên Cộng ḥa phản đối kế hoạch sẽ tiếp quản Hạ viện vào năm tới.
Cơ sở của sự phản đối của Đảng Cộng ḥa đối với thỏa thuận là không rơ ràng, và những tuyên bố của họ về vấn đề này là mơ hồ và vô nghĩa. Dân biểu Vern Buchanan – người có thể trở thành chủ tịch ủy ban soạn thảo thuế chính của Hạ viện – nói với các phóng viên rằng “Hoa Kỳ sẽ không bị bắt nạt khi chấp nhận một thỏa thuận không bảo vệ người lao động và doanh nghiệp Mỹ khỏi các loại thuế nước ngoài mang tính phân biệt đối xử.” Ngược lại, việc không thực hiện các quy tắc GLoBE có thể khiến các doanh nghiệp Mỹ phải chịu thuế nước ngoài theo thuế bổ sung UTPR đă đề cập trước đó.
Gần đây, các nhà lập pháp GOP trong các ủy ban thuế quan trọng đă gửi thư cho Tổng thống Biden và tuyên bố rằng Ṭa Bạch Ốc không có thẩm quyền đàm phán các hiệp định thuế quốc tế như vậy. Khó có thể tuân theo khẳng định này v́ Hiến pháp rơ ràng trao cho Tổng thống quyền tiến hành ngoại giao và đặt ra các mục tiêu chính sách đối ngoại.
Đáng ngạc nhiên nhất, bức thư của Đảng Cộng ḥa khẳng định, “Chúng tôi không biết bất kỳ chính quyền nào – Cộng ḥa hay Dân chủ – đă sử dụng một cách trắng trợn vai tṛ của ḿnh trong các cuộc đàm phán thuế quốc tế để thúc đẩy chương tŕnh nghị sự chính trị đảng phái của ḿnh.” Điều này thực sự mô tả hành vi của chính các nhà lập pháp Đảng Cộng ḥa. Đầu năm nay, các đảng viên Cộng ḥa trong Quốc hội đă đàm phán trong hậu trường với chính phủ độc tài Hungary để cố gắng ngăn chặn việc thực thi thuế tối thiểu toàn cầu ở EU. Mặc dù chiến thuật này cuối cùng đă thất bại, nhưng nó đă tạo ra một rào cản nghiêm trọng đối với thỏa thuận, v́ các quy tắc của EU yêu cầu tất cả các nước thành viên phải đồng ư với bất kỳ thỏa thuận thuế nào.
Trái ngược với những tuyên bố của Đảng Cộng ḥa rằng các quy tắc của GLoBE là phản cạnh tranh hoặc Hoa Kỳ đang bị ép buộc phải chấp nhận một số thỏa thuận sẽ gây tổn hại cho đất nước, kế hoạch đă được các nhà ngoại giao của chúng ta đàm phán để làm cho hệ thống quốc tế hoạt động cho tất cả người Mỹ chứ không phải cho các cổ đông tập trung trong số một phần trăm giàu nhất của chúng tôi và trong số các nhà đầu tư nước ngoài. Các tập đoàn đa quốc gia không thể trốn thuế bằng cách “kiếm” tất cả tiền của họ trong hộp thư bưu điện trong khi người lao động Mỹ nghiêm túc đóng thuế theo từng tháng lương. Chính phủ Hoa Kỳ và Châu Âu nên ngừng sử dụng các lănh thổ nhỏ của Anh làm con tốt để cho phép các tập đoàn tránh đóng góp tài trợ cho trường học, đường xá và an toàn công cộng. Tiến tới việc thực hiện sẽ làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ mạnh hơn và cạnh tranh hơn chứ không phải kém đi.
|
|