Quan điểm để giải quyết vấn đề sinh diệt của người Ấn Độ thời đức Phật cũng như thời hiện tại, họ có bốn cách để giải quyết mai táng, thứ nhất là địa táng, thứ hai là hỏa táng, thứ ba là lâm táng, thứ tư là thủy táng.
Hỏi: Sau khi chết nên chôn hay thiêu th́ phù hợp với quan niệm của đạo Phật?
Trả lời của Sa môn Thích Quang Hạnh Trụ xứ Diễn Lâm, Diễn Châu, Nghệ An
Trả lời: Vạn pháp được sinh ra và biến diệt đều xảy ra trong các thế giới quan trật tự của guồng máy nhân quả, trong ba giới, bốn loài, loài hữu t́nh hay loài vô t́nh, nhân tưởng hay hữu tưởng, chúng đều có quy luật sinh diệt của chúng trong thế giới quan của chúng.
Chúng sinh nào được sinh ra từ môi trường nghiệp nhân quả nào th́ chúng tự sinh diệt trong môi trường nhân quả ấy, loài được sinh ra từ môi trường nghiệp nhân quả ở trong môi trường của nước th́ chúng tự sinh diệt trong môi trường nghiệp nhân quả của nước, chúng sinh nào được sinh ra từ môi trường nghiệp nhân quả trên cạn th́ chúng tự sinh diệt trong môi trường nghiệp nhân quả trên cạn, chúng sinh được sinh ra từ môi trường nghiệp nhân quả trong đất th́ chúng tự sinh diệt trong môi trường nghiệp nhân quả trong đất, chúng sinh nào được sinh ra từ môi trường nghiệp nhân quả trong rừng sâu th́ chúng tự sinh diệt trong môi trường nghiệp nhân quả trong rừng sâu, chúng sinh nào sinh ra từ môi trường trên cao th́ chúng tự sinh diệt trong môi trường nghiệp nhân quả ở trên cao,…
Qua đó, chúng ta thấy được rằng chuyện sinh diệt (sống và chết) của vạn pháp cũng được thiết lập một cách rất logic không sai lệch một pháp nào, năm thủ uẩn của mỗi loài cũng đều được thiết lập trong năm thế giới quan của mỗi thức (sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và ư thức), do năm thủ uẩn này tạo ra thế giới quan cộng trú tương ưng với môi trường nghiệp của chúng.
Mỗi loài đều có môi trường sống riêng biệt, không có môi trường sống nào mà giống môi trường sống nào! Môi trường sống của noăn sinh khác với môi trường sống của thai sinh, môi trường sống của thai sinh khác với môi trường sống của thấp sinh, môi trường của thấp sinh khác với môi trường sống của hóa sinh, môi trường sống của dục giới khác với môi trường sống của sắc giới, môi trường sống của sắc giới khác với môi trường sống của vô sắc giới.
Yếu tố của môi trường nhân sinh quan (con người) cũng là một trong những môi trường sống trong thế giới quan và vũ trụ quan, môi trường sống trong càn khôn vũ trụ quan này đều như nhau và đều vô ngă, nó không có giá trị ǵ để bàn luận về sinh diệt.
H́nh ảnh chỉ mang tính chất minh họa. Ảnh: St
Sự sinh diệt của con người có khác ǵ sự sinh diệt của muôn loài hữu t́nh, sự sinh diệt của loài hữu t́nh có khác ǵ sự sinh diệt của loài vô t́nh, sự sinh diệt của loài vô t́nh có khác ǵ sự sinh diệt của loài có sự sống và sự sinh diệt của loài có sự sống có khác ǵ sự sinh diệt của vạn vật không có sự sống, cho nên trong thế giới quan hạn hẹp này, dưới góc nh́n hiểu biết của chúng ta khi nghĩ về sự sinh diệt (sống và chết) cũng chỉ là khái niệm, cũng chỉ là một tư duy của tưởng tri.
Thời đức Phật và cũng như ngay thời hiện tại, đất nước và con người Ấn Độ v́ quốc độ ấy có quá nhiều tôn giáo và tín đồ cực đoan, cho nên cũng h́nh thành nên những tư duy khác biệt, cục bộ của mỗi tôn giáo ấy khi bàn luận về sự sinh diệt.
Xuất phát từ quan điểm về giai cấp phân biệt nên tạo ra các hệ ư thức sinh diệt cũng không đồng nhất. Quan điểm để giải quyết vấn đề sinh diệt của người Ấn Độ thời đức Phật cũng như thời hiện tại, họ có bốn cách để giải quyết mai táng, thứ nhất là địa táng, thứ hai là hỏa táng, thứ ba là lâm táng, thứ tư là thủy táng.
Bốn cách mai táng này xuất phát từ các tư duy của các tôn giáo thời xa xưa trước lúc đức Phật Đản sinh, lúc bấy giờ các tôn giáo của Bà la môn đều có chung một quan điểm là thế giới đang hiện hữu là một thế giới Tiểu ngă trong một thế giới của Đại ngă, chúng được nuôi dưỡng và sinh ra từ tứ đại “Đất, Nước, Gió và Lửa”. Bốn đại này có sức mạnh không thể có pháp nào có thể kháng cự, cho nên các tôn giáo Bà la môn ấy xem bốn đại như bốn vị thần” tứ thiên vương”, các tôn giáo Bà la môn ấy ra đời để tôn thờ các vị thần linh ấy hầu mong để được b́nh an, trong đó có đạo thờ Bái hỏa (thờ lửa) trong kinh Nikaya có nói đến.
Bà la môn tôn thờ một trong những các vị thần (Đất, nước, gió, lửa) ấy mà họ h́nh thành nên niềm tin và tư duy rằng khi chết đi phải mai táng sao cho linh hồn của người đă chết được vị thần linh mà họ tôn thờ ấy sẽ tiếp dẫn vong linh về thế giới của Đại ngă, tín đồ hay tôn giáo nào tin theo vị thần Địa linh th́ chọn địa táng để được vị thần linh ấy đưa về thế giới của đại ngă, tín đồ hay tôn giáo nào tin theo vị thần Thủy linh th́ chọn thủy táng để được vị thần ấy tiếp dẫn về với đại ngă, tín đồ hay tôn giáo nào tin theo vị thần Phong linh th́ chọn lâm táng để được vị thần linh ấy tiếp dẫn về với thế giới đại ngă, tín đồ hay tôn giáo nào tin theo vị thần Hỏa linh th́ chọn Hỏa táng để được vị thần linh ấy tiếp dẫn về với thế giới đại ngă.
Phong tục tạo nên ư thức hệ của mỗi tín đồ tôn giáo ấy đă truyền thừa cho đến thời điểm Thế Tôn ra đời và cũng cho đến thời hiện tại có một số vùng dân tộc kém văn minh họ vẫn c̣n bị ảnh hưởng bởi các luồng tư tưởng thần quyền, c̣n tin vào các Thần linh th́ họ vẫn c̣n giữ các h́nh thức mai táng này kể cả đất nước Ấn Độ hiện thời.
Nhưng tại sao vào thời đức Phật, Thế Tôn hay các đệ tử của Ngài thường chọn cách hỏa táng để giải xác thân sau khi chết?
Ở đây có hai luồng trí tuệ được Thế Tôn hướng đến để tư duy đó là “giải quyết môi trường và tạo ra môi trường”, bởi v́ Thế Tôn biết như thật rằng” vạn pháp được sinh khởi trong môi trường, sống trong môi trường và hủy diệt về với môi trường” cho nên Thế Tôn thấu triệt về vấn đề môi trường.
Thứ nhất chúng ta bàn luận về “giải quyết môi trường”. Khi Thế Tôn quan sát về thế giới quan là Ngài nghĩ ngay đến môi trường sống, bởi v́ thế giới quan sẽ tương tác và đồng nhất với môi trường nghiệp lực hấp dẫn của mỗi ư thức lực hấp dẫn của mỗi loài để kiến tạo nên môi trường sinh diệt của mỗi loài ấy trong đó có loài người. Người có trí tuệ là người biết tạo nên môi trường thanh tịnh v́ chính môi trường thanh tịnh này được tạo nên bởi ư thức lực thanh tịnh, ư thức lực thanh tịnh hấp dẫn sẽ tương đồng và tạo ra thế giới quan thanh tịnh, nhờ vào thế giới quan thanh tịnh này mà làm cho môi trường thời tiết cũng được ôn ḥa. Chỉ có lửa là đại duy nhất mới giải quyết triệt để các chất tạo nên bất tịnh, ngoài ra ba đại nước, gió và đất không có khả năng làm trong sạch môi trường một cách triệt để, cho nên Thế Tôn không chấp nhận ba đại ấy mà chỉ chọn Hỏa đại để giải quyết xác thân?
Vấn đề thứ hai chúng ta bàn luận về “tạo ra môi trường”! Vậy Thế Tôn tạo ra môi trường ǵ? Đó là môi trường giải thoát, chúng ta nên nhớ khi xác thân ta tan ră th́ năm thủ uẩn cũng tan ră, khi năm thủ uẩn tan ră th́ bản chất tứ đại cũng tan biến để nó trở về với tứ đại của vạn pháp, v́ vạn pháp được sinh khởi bởi tứ đại của vũ trụ của vạn pháp của vô ngă pháp, như vậy khi ngũ uẩn tan ră th́ tứ đại của xác thân tan ră, địa đại là (xác thân) tan ră, thủy đại là (nước trong thân) tan ră, phong đại là (hơi thở) tan ră, hỏa đại là (hơi nóng) tan ră.
Khi khi tứ đại xác thân tan ră th́ năm thủ uẩn biến mất không c̣n pháp nào hiện hữu, sự sống hiện tại hết duyên nhân quả. Ở đây có một vấn đề mà trí tuệ tư duy của Thế Tôn được khởi lên, khi năm thủ uẩn tan ră! Vậy uẩn nào là uẩn có quy tŕnh tan ră xảy ra lâu dài hơn? Đó là sắc uẩn! Khi tiến tŕnh tan ră của sắc uẩn diễn lâu dài th́ đồng nghĩa với năm thủ uẩn của nhân sinh quan chưa đồng nhất với thế giới quan và cũng như vũ trụ quan, như vậy Thế Tôn thật tri rằng duyên nghiệp lực hấp dẫn chưa thể tương đồng với thế giới vô ngă pháp chỉ v́ một uẩn chưa hoàn toàn tan ră. Chúng ta cũng biết rằng Thế Tôn kể về sắc uẩn như sau: “này các Tỳ kheo, cái ǵ thuộc về sắc, đây là móng tay, móng chân, đây là râu tóc, đây là xương cốt, đây là da thịt, đây là răng, đây ruột non ruột già, đây là t́m, đây là phổi, đây là dạ dày,…”.
Như vậy, qua đó cho chúng ta thấy rằng đối với sắc uẩn cái ǵ làm cho tiến tŕnh tan ră lâu dài, đó là móng tay móng chân, đó là râu tóc, đó là xương cốt, đó là răng, các yếu tố các pháp này làm cho sự tiến tŕnh tan ră diễn ra bị tŕ trệ. Vậy để cho các yếu tố các pháp ấy được tan ră nhanh chóng th́ chỉ có hỏa đại mới giải quyết triệt để và nhanh nhất ngơ hầu đưa đến sự đồng nhất với ngũ uẩn thế giới quan và ngũ uẩn vũ trụ quan, giúp cho quá tŕnh của một pháp trong vạn pháp trở về với bản thể vô ngă.
Ghi chú: Những trao đổi, lập luận, quan điểm thể hiện chính kiến, cách hành văn và tư duy riêng của tác giả. Tạp chí NCPH đăng tải để rộng đường trao đổi, mang tính học thuật, phục vụ công tác nghiên cứu triết học Phật giáo.
Tiêu đề (*): Do BBT Tạp chí NCPH đặt