R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Dec 2008
Posts: 44,699
Thanks: 262
Thanked 591 Times in 456 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1 Post(s)
Rep Power: 61
|
Đi t́m di sản trong ḷng biệt điện Trần Lệ Xuân
Năm 1960, Mộc bản triều Nguyễn đă được chuyển từ Cố đô Huế lên Đà Lạt – Kinh đô của “Hoàng triều Cương thổ”, lưu trữ ở biệt điện Trần Lệ Xuân.
Mộc bản đi xe lửa t́m nơi trú mới
Mộc bản triều Nguyễn là một kho tài liệu rất có giá trị lịch sử nên dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm các nhà chức trách đă đề xuất chuyển khối tài liệu này lên từ Huế lên Đà Lạt để bảo quản tốt hơn. Tuy nhiên, phải mất nhiều thời gian khảo sát và chuẩn bị phương án di chuyển mới có thể thực hiện được.
Ngày 2/4/1960, thực hiện chỉ thị của Ngô Đ́nh Diệm, một phái đoàn được cử đi công tác tại Huế để xem xét tại chỗ và nghiên cứu thể thức di chuyển lên Đà Lạt các cổ thư cùng tài liệu lịch sử đang tàng trữ tại Huế. Phái đoàn được cử đi công cán khảo sát tài liệu đó gồm có 3 người, đó là ông Phạm Như Phiên - nguyên đại biểu tại Cao nguyên Trung phần; ông Nguyễn Gia Phương – nguyên Phó giám đốc Nha văn Khố và Thư viện Quốc gia và ông Lê Phục Thiện - chuyên viên Hán tự tại Viện khảo cổ. Theo đoàn khảo sát cho biết có khoảng hơn 50.000 tấm mộc bản đă được phân loại sắp xếp và sẽ được vận chuyển vào Đà Lạt bằng xe lửa.
 | Mộc bản triều Nguyễn trong kho lưu trữ tại Đà Lạt hiện nay |
Sau chuyến khảo sát 5 ngày từ 7/4 đến 11/4/1960, phái đoàn đă đưa ra một số kiến nghị. Về Mộc bản, đề nghị chuyển ngay tất cả phần Mộc bản đă được phân loại lên Đà Lạt, c̣n phần chưa phân loại để bảo tàng làm xong rồi sau đó tiếp tục chuyển lên. Về h́nh thức di chuyển, dự tính bó Mộc bản thành từng bó từ 5 đến 10 tấm (tùy theo khổ Mộc bản và trọng lượng) bằng dây thép 2 li, buộc chữ thập để xách được và xếp lên toa xe lửa.
Việc di chuyển Mộc bản từ Huế lên Đà Lạt rất khó khăn v́ khối Mộc bản này rất nhiều và phải đóng thành từng bó bỏ vào thùng rồi vận vận chuyển ra ga Huế, sau đó mới chuyển lên tàu. Khi đến ga Tháp Chàm (Ninh Thuận), Mộc bản lại được chuyển qua tàu đặc chủng khác để vận chuyển lên Đà Lạt, tuyến đường sắt từ Tháp Chàm lên Đà Lạt là đường ray răng cưa độc nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ.
Khi lên đến Đà Lạt được những quân nhân của trường quân sự vơ bị Đà Lạt tiếp nhận và di chuyển đến những nơi tập chung. Công việc di chuyển Mộc bản được tiến hành rất kín đào và mau lẹ. Việc di chuyển Mộc bản được tiến hành làm 3 đợt. Đợt 1 kết thúc vào ngày 18 /7/1960, đợt 2 kết thúc vào ngày 22/12/1960, đợt 3 kết thúc vào ngày 14/6/1961.
Khi được chuyển lên Đà Lạt, khối Mộc bản được cất giữ không cố định một nơi mà tiếp tục được bảo quản ở nhiều địa điểm. Đầu tiên Mộc bản được tập chung tại ṭa nhà số 3 Trần Hưng Đạo (nay là Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng), sau đó được chuyển về bảo quản tại Văn khố Đà Lạt (nay là Chi cục Tiên chuẩn Đo lường Chất lượng Đà Lạt), tiếp đến được chuyển về gara của trung tâm Hùng Vương (nay là trường Cao đẳng sư phạm Đà Lạt).
Sau năm 1975, Mộc bản triều Nguyễn được giao cho Cục Lưu trữ nhà nước (nay là Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước) quản lư. Trước năm 1989, Mộc bản triều Nguyễn được bảo quản tại ṭa nhà Ḍng chúa Cứu thế (nay là Viện sinh học Tây Nguyên). Năm 1989, Mộc bản triều Nguyễn được chuyển về bảo quản tại khu Biệt điện Trần Lệ Xuân. Khi Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV được thành lập (25/8/2006) th́ khối tài lệu này thuộc quyền quản lư của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước).
Khi vận chuyển lên Đà Lạt, số lượng Mộc bản là hơn 50.000 tấm, nhưng hiện nay số lượng c̣n lại tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV chỉ là 34.618 tấm. Vậy là Mộc bản đă hao hụt khoảng 20.000 tấm. Rất có thể hiện nay nhiều tư gia ở Đà Lạt vẫn đang c̣n những tấm Mộc bản.
Nơi lưu trú mới
Biệt điện Trần Lệ Xuân (nay là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV) là một trong những khu Biệt điện nổi tiếng thời kỳ đệ nhất của chế độ Việt Nam Cộng ḥa mà chủ nhân lại là Đệ nhất Phu nhân Trần Lệ Xuân (vợ của Ngô Đ́nh Nhu). Khu Biệt điện này được Trần Lệ Xuân bắt đầu cho xây dựng từ năm 1958 nhằm mục đích nghỉ mát và giải trí của gia đ́nh Trần Lệ Xuân và các tướng tá Sài G̣n mỗi dịp lên Đà Lạt.
 | Một góc biệt điện Trần Lệ Xuân |
Những bậc cao niên ở Đà Lạt kể rằng biệt điện là khu không được ai bén mảng đến, mỗi ngày có hàng chục vệ binh cộng ḥa túc trực, một con chim lạ bay qua cũng có thể bị bắn hạ. Sau khi chế độ “Gia đ́nh trị” họ Ngô bị lật đổ (11/1963), khu Biệt điện này được chế độ Nguyễn Văn Thiệu dùng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên nhưng không mấy phát triển. Sau năm 1975, khu Biệt điện được giao cho Sở Văn hóa – Du lịch Lâm Đồng. Năm 1984, khu Biệt điện được giao cho Cục Lưu trữ nhà nước. Từ ngày 25/8/2006, khu Biệt điện trở thành Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV.
Hiện tại, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đang bảo quản 34.618 tấm Mộc bản. Trên khắp cả nước c̣n một số địa điểm lưu giữ được một số bộ ván khắc in này như ở Bảo tàng Nghệ An, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Phân viện Nghiên cứu Văn hóa - Nghệ thuật tại Huế, một số tư gia ở Huế. Tuy nhiên, số lượng ván khắc ở những nơi này không đầy đủ và không phong phú như ở Đà Lạt. Sự ra đời của tài liệu Mộc bản do Quốc sử quán đảm nhận chính, Quốc sử quán được thành lập năm 1821.
Mộc bản triều Nguyễn có nội dung rất phong phú và được chia làm 9 chủ đề gồm: Lịch sử, Địa lư, Quân sự, Pháp chế, Văn thơ, Tôn giáo – Tư tưởng – Triết học, Ngôn ngữ - Văn tự, Chính trị - Xă hội, Văn hóa – Giáo dục. Trong khối tài liệu này có một số bộ sách rất có giá trị mà các nhà nghiên cứu về lịch sử, địa lư, pháp luật, văn hóa của Việt Nam không thể bỏ qua như: Đại Nam thực lục, Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long), Đại Nam nhất thống chí... Trong đó bộ sách Đại Nam thực lục là đồ sộ nhất được biên soạn trong 88 năm (1821 – 1909).
Theo một số tài liệu cho biết, những bản khắc Mộc bản chủ yếu sử dụng gỗ thị để khắc, bởi gỗ thị có đặc điểm có màu trắng, thớ gỗ mịn, nhẹ, thường được dùng để khắc dấu không nứt mẻ, không cong vênh. V́ thế nên trải qua mấy trăm năm đến nay Mộc bản vẫn có t́nh trạng vật lư tốt. Ngoài ra, người ta c̣n dùng gỗ lê, gỗ táo để khắc Mộc bản. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, một bộ sách địa chí nổi tiếng của triều Nguyễn c̣n cho biết: “Gỗ dùng để khắc Mộc bản là gỗ cây nha đồng, thớ gỗ mịn, trắng sáng như ngà voi”.
Khắc Niên – Khắc Lịch
Bee
Last edited by tonycarter; 07-31-2011 at 06:15.
|