Dẫn ư kiến của một nhà chuyên môn Mỹ phân tích thực trạng ngành GDVN hiện nay, bạn đọc Nguyễn Hữu Tâm (Bà Rịa-Vũng Tàu) lư giải sâu hơn về những “ngộ nhận” của nền GDVN trong nỗ lực vẫy vùng để cải cách, nâng cao chất lượng.
GS Thomas J.Vallely
Tháng 11/2008, trong khuôn khổ chương tŕnh Bồi dưỡng lănh đạo các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, đoàn tham quan và học tập kinh nghiệm các trường đại học, cao đẳng ở Hoa Kỳ do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đă đến thăm Đại học Harvard. Đoàn được trường tiếp đón và báo cáo một chuyên đề nghiên cứu về hệ thống giáo dục ở Việt Nam.
Người báo cáo là GS Thomas J.Vallely, Giám đốc Chương tŕnh Việt Nam của Đại học Harvard. Ông chỉ ra rằng: sở dĩ nền giáo dục Việt Nam hiện nay c̣n gắng gượng, chưa sụp đổ (chữ dùng của GS) là do các yếu tố:
+
Một là sự bùng nổ internet ở Việt Nam trong những năm gần đây. Sở dĩ GS có kết luận trên là do nhà trường phỏng vấn thí sinh Việt Nam đăng kư vào Đại học Harvard. Các thí sinh nói đă khai thác được kho tàng internet để t́m kiếm thông tin và học tập tốt. Trong nhóm được phỏng vấn, chỉ có khoảng 1% hạn chế về vấn đề này.
+
Hai là nhờ truyền thống hiếu học. Có thể nói, xă hội Việt Nam là một xă hội hiếu học và đặt giá trị của giáo dục rất thiêng liêng. Các bậc phụ huynh sẵn sàng đầu tư cho việc học tập của con cái ḿnh về cả về vật chất lẫn tinh thần.
+
Ba là kỳ thi tuyển sinh đại học ở Việt Nam được tổ chức khá nghiêm túc. Và do vậy,Việt Nam hầu như tuyển được những người có thực lực.
Tuy nhiên, GS cũng chỉ ra những “ngộ nhận” của nền giáo dục Việt Nam trong nỗ lực vẫy vùng để cải cách, nâng cao chất lượng. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn lư giải sâu hơn về các ngộ nhận do GS chỉ ra.
1. Cứ đạt chuẩn là… có chất lượng:
Sản phẩm hàng hóa trước khi tung ra thị trường trong và ngoài nước bao giờ cũng qua khâu kiểm định chất lượng một cách rất nghiêm ngặt và chặt chẽ. Các chỉ số về chất lượng của hàng hóa làm nên thương hiệu của sản phẩm. Người kiểm định chất lượng không phải là nhà sản xuất, mà là một cơ quan độc lập. Thế là thuật ngữ “
đạt chuẩn” ra đời. Thuật ngữ này dần lấn sân sang lănh vực khác, đặc biệt là Giáo dục.
Trường đạt chuẩn Quốc gia, chuẩn ISO, chuẩn Quốc tế, rồi chuẩn Hiệu trưởng, chuẩn giáo viên, chuẩn học sinh, chuẩn lên lớp, chuẩn kiến thức kỹ năng…Muôn vàn cái chuẩn đang hàng ngày, hàng giờ sinh sôi, nảy nở trong từng tế bào, thớ thịt của cơ thể Giáo dục. Chúng hành hạ, làm hao tổn sức lực con người, gây lăng phí tiền của Nhà nước.
Mỗi một “chuẩn” được học tập từ nước ngoài về được các chiến lược gia giáo dục nhào nặn lại cho phù hợp với thể trạng con người, phù hợp với vùng miền, phù hợp với t́nh h́nh đất nước…nói chung là phù hợp với nền giáo dục truyền thống của dân tộc. Thế là Thông tư này, Chỉ thị kia, Quyết định nọ được thay nhau…Sau đó là một đội ngũ giáo viên khăn gói lên đường tập huấn. Từ nay có chuẩn rồi nhé! Cứ thế mà làm.
Hành tŕnh
“đi t́m Chuẩn” trong giáo dục đơn giản chỉ là thế. Sự giản đơn để làm dễ hiểu một vấn đề phức tạp trong học thuật là năng khiếu của sự truyền đạt. Tuy nhiên, đơn giản hóa một cách làm để mong có kết quả tốt đối với vấn đề hệ trọng của đất nước, th́ tôi e là thật… lâm nguy. Chuẩn mà giáo dục đang áp dụng tràn lan là một
liệu pháp tinh thần, nhằm trấn an dư luận về t́nh trạng xuống dốc của giáo dục nước nhà mà thôi. Chứ thực tế là nó càng làm cho bức tranh của ngành đă rối lại càng rối.
Thực tế các tiêu chuẩn mà chúng ta học tập được từ nước ngoài là nguồn tư liệu quư giá mang tính định hướng. Ở đất nước bạn, đơn vị đứng ra để đo đạc các tiêu chí đó là cơ quan kiểm định chất lượng độc lập, có uy tín, được xă hội tin tưởng đặt niềm tin. V́ vậy, những kết luận của họ được thừa nhận tuyệt đối. Kết luận của các cơ quan kiểm định khách quan này đối với bất kỳ một cơ sở giáo dục nào, luôn được mọi người quan tâm. Nó có thể là một lời khẳng định thương hiệu, cũng có thể là dự báo cần phải thay đổi, thậm chí người đứng đầu giáo dục phải từ nhiệm.
C̣n chúng ta, áp dụng chuẩn hết sức máy móc, đơn điệu, người làm cũng là người kiểm định chất lượng. Chúng ta ngộ nhận tai hại rằng kiểm định chất lượng là liều thuốc có thể chữa bách bệnh mà quên rằng nó chỉ là công cụ, chưa nói công cụ đó phải được giao vào tay ai trong cuộc chiến phân định trắng/đen của chất lượng.
Kết luận về Chuẩn của một cá nhân hay tập thể trong ngành giáo dục là cực kỳ quan trọng. Trường này đạt chuẩn, trường kia chưa đạt, giáo viên này chuẩn, hiệu trưởng kia chỉ loại trung b́nh…Các kết luận như vậy mặc nhiên và nhan nhản, không tác động mảy may ǵ đến đối tượng được kết luận.
V́ chúng ta chưa có những chế tài thật sự.
Vậy th́
nguồn căn của sự thành bại trong áp dụng chuẩn là tính nội tại bên trong, điều này được ví như “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, như vẻ đẹp lung linh về tâm hồn. Tại sao chúng ta máy móc cứ chạy theo chuẩn, phải đạt chuẩn, trên chuẩn mà chúng ta không quan tâm đến nỗi hổ thẹn, tính tự chịu trách nhiệm của những người quản lư giáo dục?
Nếu các cơ sở giáo dục nhiệt t́nh, có trách nhiệm, có tâm, suốt cuộc đời gắn bó và cống hiến cho sự nghiệp ḿnh đă chọn, th́ tôi nghĩ việc đạt chuẩn và trên chuẩn là rất b́nh thường. V́ vậy,
việc có chế tài sau khi kiểm định cộng với việc tăng cường hơn nữa tính tự chịu trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ sở giáo dục, theo tôi nghĩ, là then chốt làm nên chất lượng giáo dục.
C̣n hiện nay, giữa các cơ sở giáo dục vẫn c̣n t́nh trạng “cá mè một lứa”. T́nh trạng này là vấn nạn âm ỉ, vô h́nh nhưng có tác dụng ghê gớm làm nản ḷng những nhà giáo dục chân chính.
2. Đầu tư nguồn lực vật chất để mong thay đổi chất lượng giáo dục
Để cứu một ngân hàng đang trên bờ vực phá sản, những người có trách nhiệm thường dùng giải pháp “bơm” tiền. Để nâng mức sống cho người dân, nhà nước thường đầu tư chung cư, nhà cho người thu nhập thấp, đường sá, bệnh viện, trường học…Nói chung dùng nguồn lực vật chất để làm đ̣n bẩy mong tạo ra cái mới có chất lượng hơn.
Đầu tư về vật chất là dễ dàng như cấp nhà cho người nghèo, như hỗ trợ ODA không hoàn lại. Nhưng
nếu nghĩ rằng đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường để ngay lập tức chất lượng được nâng lên, theo tôi, là quan điểm quá ngộ nhận của những nhà quản lư của chúng ta hiện nay.
Đă bao giờ chúng ta thử t́m câu trả lời cho những thắc mắc: tại sao những con ngoan tṛ giỏi, những thủ khoa đại học phần đông là con của người dân lao động, có gia cảnh khó khăn? Cơ sở vật chất của các trường phổ thông ở phía Bắc nh́n chung c̣n thua xa các trường ở phía Nam, nhưng chất lượng đỗ đại học các trường phía Bắc vẫn hơn hẳn phía Nam? Cả nước có gần cả trăm trường THPT chuyên, được đầu tư cơ sở vật chất rất khang trang và hiện đại…nhưng có tỉnh vẫn thật sự chưa thu hút học sinh vào học, thực tế này nói lên điều ǵ ?
Đứng trước ngộ nhận tai hại đó, tại “ Hội thảo khoa học tri thức thủ đô với việc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam giai đoạn 2012-2020” được tổ chức ngày 29/9/2012 tại Hà Nội, PGS. TS Khổng Doăn Điền đă chỉ ra: Giáo dục trong những năm chiến tranh với điều kiện rất khó khăn nhưng một thế hệ học tṛ vẫn trưởng thành và thành đạt : “Hồi đó dù trường không ra trường, lớp không ra lớp nhưng v́
thầy ra thầy nên tṛ ra tṛ”. Ông Điền c̣n đề nghị việc
đổi mới giáo dục phải nên từ yếu tố con người.
Đúng vậy, chất lượng giáo dục phải xuất phát từ yếu tố con người. Người thầy là quan trọng nhất. Đầu tư cho nguồn lực vật chất, chương tŕnh, sách giáo khoa cho giáo dục là cần thiết nhưng chưa cấp thiết, là điều kiện cần nhưng chưa đủ, chỉ đủ làm nên h́nh hài chứ chưa làm nên cốt cách tâm hồn. Ngoài ra, việc ngộ nhận này c̣n xuất phát từ tâm lư của các cấp lănh đạo muốn xây dựng trường lớn, trường đạt chuẩn…và điều này càng thôi thúc các nhà quản lư nhà nước hơn, khi mà vấn nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi.
GS Hoàng Xuân Sính phát biểu tại hội thảo Trí thức thủ đô với việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam do Liên hiệp Các Hội khoa học Kỹ thuật Hà Nội tổ chức (ảnh: Người Lao động)
3. Muốn có chất lượng phải cải cách từ từ
Giáo sư Thomas J.Vallely cho rằng việc giáo dục Việt Nam chậm đổi mới có nguyên nhân từ một số vị giới chức cấp cao. Ông dẫn ra dẫn chứng khá mỉa mai: "Mỗi lần tôi gặp một quan chức Việt Nam đề cập đến việc cải cách, th́ đều nhận được câu trả lời “sẽ cải cách từ từ”. Và nếu mỗi lần như vậy cho tôi 1 đô la, th́ bây giờ tôi đă là người giàu có…"
Việt Nam không thiếu người am hiểu về Giáo dục, có thể khẳng định như vậy. Tuy nhiên, chúng ta thiếu người biết lắng nghe, điều này là một thực tế. Từ đầu năm 2000 đến nay có rất nhiều kiến nghị, góp ư nhằm chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Nhiều ư kiến tâm huyết, kết tinh của quá tŕnh nghiên cứu khoa học không mệt mỏi của các trí giả trong và ngoài nước. Các đề án kiến nghị được soạn thảo rất công phu, mang tính khoa học và thực tiễn cao của các học giả nổi tiếng được gửi đến cơ quan Đảng và Nhà nước như:
+ của Giáo sư Hoàng Tụy và các cộng sự: Đề án “Kiến nghị của hội thảo về chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục”.
+ của trí giả Việt kiều Vũ Quang Việt và cộng sự: Đề án “Sử dụng trí thức Việt kiều để xây dựng giáo dục đại học chất lượng cao tại Việt Nam”.
Và hàng loạt những nhà khoa học khác có am tường về Giáo dục Việt Nam như : Nguyễn Đăng Hưng, Nguyễn Quang A, Nguyên Ngọc, Phan Đ́nh Diệu, Phạm Phụ, Phạm Toàn..v.v. thay nhau đăng đàn, thuyết giáo.
Đổi lại, các nhà lănh đạo “vẫn b́nh chân như vại”, “người nói cứ nói và người làm cứ làm”, họa hoằn lắm mới có người nhếnh mép “phải thay đổi từ từ”.
Và để xoa dịu dư luận về sự xuống cấp của Giáo dục, lâu lâu chúng ta lại “hâm nóng” đề tài này bằng các cuộc hội thảo quy mô, như Hội thảo vừa rồi của trí thức Thủ đô với việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục VN giai đoạn 2012-2020.
Một bức tranh xám màu của giáo dục lại có dịp để vén tấm màn che lên, gây nhức nhói, đau buốt bằng những nhận định của những nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực giáo dục như:
+ GS Chu Hảo: “ Nền giáo dục của chúng ta hiện nay không phải là lạc hậu (đi đúng hướng nhưng đi chậm) mà là lạc đường”.
+ GS Hoàng Xuân Sính “vẽ” cụ thể một bức tranh trải ra trước mắt: Hệ phổ thông với thầy và tṛ suốt ngày dạy thêm học thêm. Hệ ĐH với những sinh viên chỉ muốn xả hơi sau 12 năm g̣ lưng trên bàn học, đến mùa thi th́ th́ “đi thầy” để có bảng điểm tốt. Và một danh sách dài những gia đ́nh chán ngán giáo dục nước nhà, t́m cách cho con ra nước ngoài học...
Có thể nói trong 12 năm từ tiểu học đến hết THPT - giáo dục của Việt Nam chỉ làm được việc dạy kiến thức, c̣n việc dạy người th́ chưa làm được ǵ. GS Hoàng Tụy khẩn thiết: “Sau mấy chục năm giáo dục ch́m đắm trong khủng hoảng triền miên bởi các ràng buộc ư thức hệ cứng nhắc, đă đến lúc phải có lựa chọn. Hoặc là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục giam hăm đất nước trong nền giáo dục ngày càng tụt hậu so với thế giới. Hoặc là cương quyết thay đổi tư duy - thực hiện bước ngoặt cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển” (trích báo Dân trí, ngày 01/10/2012).
Nhưng tôi tin chắc rằng, sau hội thảo vấn đề vẫn… trở lại như cũ. Có chăng là một vài động thái nhỏ, mang tính “cải cách từ từ” lại tiếp diễn,đại loại như: đổi mới chương tŕnh sách giáo khoa, rồi thí điểm, phân luồng mạnh mẽ, tăng đầu tư ngân sách…
4. Cách tuyển chọn và quản lư nhân sự hiện nay
Nếu con người là nhân tố quyết định mọi sự thành bại th́ nền Giáo dục đă xác định đúng trọng tâm. Nhưng cách làm của chúng ta hoàn toàn không thể chấp nhận được. Chẳng hạn, tiêu chuẩn lư lịch gia đ́nh là không thể có chỗ đứng trong khoa học. Hay ông hiệu trưởng mà không có quyền sa thải một cô tạp vụ rót trà th́ rất khó nói đến việc nâng cao chất lượng.
Chất lượng chuyên môn là ưu tiên hàng đầu để tuyển chọn con người làm giáo dục, bất kể người đó là người địa phương hay địa phương khác, người đó trong đảng hay ngoài đảng, người đó trong lănh thổ Việt Nam hay nước ngoài… Miễn cá nhân đó giỏi về chuyên môn, học thuật và am hiểu về tâm sinh lư con người. Khi chúng ta có trong tay những công cụ, “vũ khí” sắc bén nhất, chúng ta mới nghĩ đến mục tiêu chinh phục, nghĩ đến kết quả đạt được, nghĩ đến sản phẩm của ngành giáo dục.
Chúng ta nên nhớ sản phẩm của giáo dục là con người, mà con người trong thời đại hôm nay khác với con người trong quá khứ.
Con người - sản phẩm làm ra của bất cứ nền giáo dục nào trên thế giới đều phải là con người toàn cầu (hay
“công dân toàn cầu” chữ dùng của ông Lư Quang Diệu).
Thấm nhuần về việc sử dụng con người, GS Thomas J.Vallely cho rằng;
Việt Nam phải đổi mới nhân sự trong giáo dục mới có thể nâng cao chất lượng giáo dục. Nếu không làm điều này, Việt Nam khó có thể đổi mới đạt hiệu quả được. Việt Nam có nhiều nhà khoa học trẻ rất giỏi, họ đă rất thành công trong và ngoài nước. Cần dành chỗ đứng cho nhân sự khoa học. Mặc dù Nhà nước phải đóng vai tṛ chủ chốt trong giáo dục, nhưng phải đổi mới về vấn đề này.
Tôi nhớ không nhằm trong Đại hội Đảng gần đây ở Trung Quốc, nước bạn nêu rơ quan điểm về nhân sự ở vị trí Bộ trưởng của các ngành chuyên về công nghệ, về thông tin truyền thông…không nhất thiết là người trong đảng. Một quan điểm rất rơ ràng.
Người có tŕnh độ chuyên môn cao cần phải được trọng dụng.
Việt Nam những năm gần đây cũng có chuyển ḿnh trong việc tuyển chọn nhân sự cho ngành giáo dục, nhưng tư tưởng sính bằng cấp, người địa phương vẫn c̣n tồn tại. Thực tế đó dẫn đến việc những người lănh đạo giáo dục không thực tài, thiếu tầm nh́n. Điều này cũng lư giải v́ sao nhiều hiến kế cách tân giáo dục vẫn ch́m vào quên lăng.
Giáo dục xuống dốc có nguyên nhân từ sự khủng hoảng một thời gian dài về nhân sự, về cách dùng người trong giáo dục.
Nói tóm lại, các ngộ nhận được GS trường Đại học Harvard nêu ra ở trên rất dễ nhận thấy trong nền giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên các cơ quan chức năng, những người chịu trách nhiệm v́ lư do “tế nhị” nào đó, họ ngụy biện bằng những mỹ từ cố t́nh che đậy một sự thật…Phải chăng là “lợi ích nhóm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đă chỉ ra? Nếu đúng vậy, th́ những ngộ nhận về chất lượng giáo dục Việt Nam mà chúng ta đang dày công vun đắp là những ngộ nhận mang tính “cố t́nh”?
Nguyễn Hữu Tâm - DânTrí